Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

III. Thầm nhận vượt qua mọi lý luận

19 Tháng Tư 201100:00(Xem: 14226)
III. Thầm nhận vượt qua mọi lý luận

Một Sức Sống Chân Thật Giữa Thế Gian
THIỀN TÔNG ĐỐN NGỘ
Thích Thông Phương
Hội Thiền Học Việt Nam PL. 2547 - DL. 2003

TỔ SƯ THIỀN

III. THẦM NHẬN VƯỢT QUA MỌI LÝ LUẬN

Đến chỗ chân thật rốt ráo này, Tổ Sư Thiền đòi hỏi người học phải tự thầm nhận thôi, không thể lý luận, dù lý luận hay khéo đến đâu, cũng không lý luận đến được trong đây.

Như có vị tăng hỏi Thiền sư Quảng Trừng ở Đại Đồng:
- Thế nào là người xưa nay?
Sư đáp:
- Ngồi chung mà chẳng biết nhau.
Tăng thưa:
- Thế ấy thì học nhân lễ bái vậy.
Sư bảo:
- Thầm viết lòng buồn biết gởi cho ai?

Tại sao ngồi chung mà chẳng biết nhau? Nếu biết tức thành hai người rồi. Tuy nhiên ông tăng nếu đã nhận thì lễ bái liền, còn nói làm gì? Nói lễ bái mà chưa lễ, cũng là dây dưa trên chữ nghĩa. Sư bảo: “Thầm viết lòng buồn biết gởi cho ai?”, trong đó cũng không có chỗ cho ông lễ, hết đường lý luận, nếu không phải chính mình ở trong ấy, đừng mong hiểu nổi.

Một Thiền sư muốn gạn trong chúng, bèn hỏi:
- Có hai người đi trong mưa, vì sao một người chẳng ướt?
Một vị nói:
- Vì một người đi ngoài mưa, một người đi dưới mái hiên.
Một vị nói:
- Vì một người mặc áo mưa, một người không mặc.
Một vị nói:
- Vì mưa có giới hạn, mưa bên này mà không mưa bên kia.
Thiền sư bảo:
- Nói một người không ướt đó, không phải chính là cả hai đều ướt hết sao?

Nghe nói một người chẳng ướt, liền suy nghĩ theo lý luận của thế tình đều không dính dáng. Trong đây, Thiền sư nói: “Một người chẳng ướt” nhưng ý chỉ vốn không ở một người nào. Nếu theo ngôn ngữ hiểu là một người, tức lầm to! Người lanh lợi chỉ ngay đó khéo tự thầm nhận là xong, khỏi phải nhiều lời. Đây không phải là chỗ để nghĩ bàn suy lý.

Chuyện Pháp Hội hỏi Mã Tổ:
- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang?
Mã Tổ bảo:
- Hãy nói nhỏ, ông đến gần đây ta nói cho nghe!
Pháp Hội đến gần, Mã Tổ tát cho một tát, bảo:
- Chẳng thể cho người thứ ba biết. Đi đi! Ngày mai đến!
Hôm sau Pháp Hội cho mình vào pháp đường thưa:
- Thỉnh Hòa thượng nói!
Mã Tổ bảo:
- Hãy đợi lão tăng thượng đường ra hỏi, ta sẽ vì ông chứng minh.
Sư bỗng nhiên có tỉnh, liền thưa:
- Lễ tạ đại chúng chứng minh!

Pháp Hội ban đầu bị Mã Tổ gạt mà không hay. Nghe bảo “nói nhỏ, lại gần đây”, ư tưởng htật đến gần, liền bị Mã Tổ tát cho tỉnh mà chưa tỉnh. Bảo nói nhỏ là ngầm chỉ việc này chỉ phải tự thầm nhận thôi, chớ để người thứ ba xen vào gây chuyện. Người thứ ba tức ý thức suy nghĩ phân biệt. Có ý thức xen vào là bị che mờ bởi duyên ngoài.

Hôm sau, Sư một mình vào pháp đường thỉnh nói, Mã Tổ lại bảo đợi thượng đường giữa đại chúng sẽ chứng minh cho, Sư liền tỉnh ngộ. Bởi lúc đầu Sư cứ tưởng Mã Tổ có gì bí mật giấu giếm không chịu nói, đâu ngờ việc ấy vốn hiện bày sờ sờ trước mặt đây thôi. Bí mật đã bật mí đó rồi, chỉ người có khéo nhận hay không vậy thôi. “Lễ tạ đại chúng chứng minh”, đến đây hết còn che giấu được nữa, mọi người chưa tỉnh còn đợi chừng nào?

Nếu chưa tỉnh, hãy nghe thêm đoạn nhân duyên Huyền Tắc với Pháp Nhãn.

Ban đầu Sư hỏi Hòa thượng Thanh Phong:
- Thế nào là tự kỷ của học nhân? (Có chỗ ghi: “Thế nào là Phật?”)
Thanh Phong đáp:
- Đồng tử Bính Đinh đến xin lửa.
Sau Sư đến gặp Pháp Nhãn, Pháp Nhãn hỏi:
- Ông từ đâu đến?
Sư thưa:
- Từ Thanh Phong đến!
Pháp Nhãn hỏi:
- Thanh Phong có lời gì chỉ dạy?
Sư thuật lại việc trước, Pháp Nhãn hỏi:
- Thượng tọa hỏi thế nào?
Sư thưa:
- Bính Đinh thuộc lửa mà lại đi xin lửa, như đem chính mình cầu chính mình.
Pháp Nhãn bảo:
- Hiểu thế ấy làm sao được?
Sư thưa:
- Con chỉ thế ấy, chưa bết Hòa thượng thế nào?
Pháp Nhãn bảo:
- Ông hãy hỏi ta, ta sẽ nói cho!
Sư hỏi:
Thế nào là tự kỷ của học nhân? (tự kỷ: chính mình)
Pháp Nhãn đáp ngay:
- Đồng tử Bính Đinh đến xin lửa.
Sư liền đốn ngộ.

 (Ngũ Đăng Hội Nguyên Tiết Dẫn)

Ai thấy trong đây có gì đặc biệt? Cũng một câu nói, tại sao lúc đầu Huyền Tắc đáp thì không phải, sau đó pháp Nhãn đáp thì thật ngộ? Làm sao phân biệt được thật giả? Người chưa thấu qua chỗ này, dễ bị tri giải lường gạt. Bởi lần đầu Huyền Tắc đáp là đáp theo thức tưởng là đã hiểu, nhưng chỉ hiểu qua khái niệm. Lần sau Pháp Nhãn đáp, là đáp trong lúc bất ngờ, Huyền Tắc không kịp suy nghĩ trước, đó là chỗ cần nghiệm kỹ! Ngày nay cũng có nhiều người trong chúng ta rơi vào trường hợp này. Cứ tưởng là mình đã ngộ, không ngờ chỉ là Hiểu về nó thôi, chưa phải giáp mặt với sự thật. Người học đạo cần phải chân thật với chính mình như Huyền Tắc, chớ vì bản ngã bám chặt vào cái hiểu của riêng mình mà tự ngăn bước tiến!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22252)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16000)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15013)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18922)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14430)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18611)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14399)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13560)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13539)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11805)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13220)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13642)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13919)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13240)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15012)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16146)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11076)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16436)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11882)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17577)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12864)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13689)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12838)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14840)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16369)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13117)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12070)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12742)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12877)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12755)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14151)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14092)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16446)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12367)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14371)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11293)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11013)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13178)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13879)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13145)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12989)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13483)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12707)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10224)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13951)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10210)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13685)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16248)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11945)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12956)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11626)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12650)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10778)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10972)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10926)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11863)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12735)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11044)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12602)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11298)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant