Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

IV. Thấy tánh

19 Tháng Tư 201100:00(Xem: 14733)
IV. Thấy tánh

Một Sức Sống Chân Thật Giữa Thế Gian
THIỀN TÔNG ĐỐN NGỘ
Thích Thông Phương
Hội Thiền Học Việt Nam PL. 2547 - DL. 2003

TỔ SƯ THIỀN

IV. THẤY TÁNH

Nói gì thì nói mà chưa thấy tánh tức vẫn là kẻ ở ngoài cửa bàn chơi vậy thôi, chưa vào được nhà Tổ. Trong Huyết Mạch Luận, Tổ sư bảo: “Nếu chẳng thấy tánh tức chẳng gọi thiện tri thức.” Song tánh có hay không mà thấy? Đây là chỗ không thể lờ mờ!

Có vị tăng tên Kế Tông hỏi Thiền sư Trí ở Vân Cư:
- Thấy tánh thành Phật, nghĩa ấy thế nào?
Sư đáp:
- Tánh thanh tịnh xưa nay trong lặng, không có lay động, chẳng thuộc có không, nhơ sạch, dài ngắn, lấy bỏ, thể tự thanh thoát, thấy như thế mói gọi là thấy tánh. Vì tánh tức Phật, Phật tức tánh, nên gọi là thấy tánh thành Phật.

Hỏi: Tánh đã thanh tịnh chẳng thuộc có không, nhân đâu có thấy?
Đáp:
Thấy không chỗ thấy.
Hỏi:
Đã không chỗ thấy, đâu được có thấy?
Đáp:
Chỗ thấy cũng không?
Hỏi:
Khi thấy như thế là ai thấy?
Đáp:
Không người hay thấy.
Hỏi
: Rốt ráo lý ấy thế nào?
Đáp:
Ông biết chăng? Vọng chấp là có tức có năng sở, mới có danh bày; theo cái thấy sanh hiểu bèn rơi vào sanh tử. Người thấy rõ ràng tức chẳng vậy, trọn ngày thấy mà chưa từng thấy, tìm cầu tên, chỗ, thể, tướng chẳng thể được, năng sở đều bặt gọi là Thấy tánh.

Như vậy, tuy nói "Thấy Ttánh" mà thực không có chỗ thấy, vượt ngoài ý niệm có không đối đãi, tự mở một lối đi siêu thoát, không lệ thuộc nơi người. Cuối cùng đến trong ấy, hai chữ “Thấy Tánh” cũng không còn dấu vết.

Hòa thượng Thạch Đầu bảo:
- Thế ấy cũng chẳng được, chẳng thế ấy cũng chẳng được, thế ấy chẳng thế ấy thảy đều chẳng được, ông phải làm sao?

Thế ấy là có. Chẳng thế ấy là không. Thế ấy, chẳng thế ấy là gồm cả có không. Tất cả đều chẳng thể được, vậy người sẽ bám vào đâu để hiểu, để thấy? Vừa có chỗ thấy liền rơi vào bên ngoài. Vừa có chỗ hiểu liền tự ngăn cách. Phải vượt lên tất cả chỗ, bặt mọi so sánh, tự rõ do không ai cả. Hòa thượng Nam Nhạc bảo: “Nói giống một vật tức không trúng”, sẵn sàng buông hết mọi chỗ nương tựa so sánh liền tự thấy.

Thiền sư Trọng Nguyên thượng đường bảo: "Một mảnh đất Phước Thắng (chỗ Sư ở) đi cũng mặc tình cho ông đi, đứng cũng mặc tình cho ông đứng, bước bước đạp đến mới biết chỗ rơi. Nếu chưa vậy, phải liền lui bước, xem lại dưới gót chân đi."

Mảnh đất đó là mảnh đất gì mà mặc tình đi đứng trong ấy? Tất cả mọi người đi đứng tới lui ở trong đó nhưng không hay biết là sao? Giờ đây, nghe nói đến, lại tưởng tượng cái gì xa lạ, rồi muốn tìm biết. Song, dù ông biết được, hiểu được cũng không dính dáng. Cốt phải từng bước, từng bước đạp đến sáng ngời mới không lầm. Nếu chưa được vậy, chỉ cần ngó xuống gót chân là xong, chớ vội suy tìm! Hãy xét kỹ: Không có tánh thì cái gì đi đứng tới lui? Dù người có cố ý phủ nhận nó nhưng nó vẫn luôn luôn hiện hữu. Cái gì Biết phủ nhận? Làm sao tự phủ nhận nó?

Có vị tăng hỏi Hòa thượng Nam Tuyền:
- Ngay khi đi đông, đi tây toàn không suy nghĩ là phải chăng?
Nam Tuyền đáp:
- Khi ấy, ai nói là phải chẳng phải?

Ông tăng quả là mở mắtchiêm bao. Đã biết đi đông, đi tây hoàn toàn không suy nghĩ thì còn ai xen vào trong đó mà nói phải, chẳng phải? Vừa nghĩ phải, chẳng phải là có suy nghĩ rồi. Chính đó là chỗ mọi người cần sáng tỏ.

Lại, Hòa thượng Huệ Nam thượng đường bảo:  "Tâm toan nghĩ liền sai, động niệm liền trái. Chẳng nghĩ, chẳng động, đất cây không khác. Người hành cước cần được một con đường chuyển thân".

Sư giơ cậy phất tử lên bảo: "Mọi người các ông làm sao chuyển? Nếu như chuyển được thì một làm vô lượng, vô lượng làm một. Nếu chuyển chẳng được, con nhạn trong túi vải, tuy sống cũng như chết".

Chú ý! Ngay đây chẳng động niệm thì đất cây, hoa cỏ trước mắt đều hiện bày tự tánh xưa nay khỏi tìm đâu xa. Tuy nhiên, là sao liền đó có con đường chuyển thân? Ngay đất cây đó, ngay cây phất tử đó. Thấy Rõ không chút sai lầm. Thấy Nguyên Vẹn Là thấy, không lẫn lộn với đất cây, không lầm lẫn với phất tử, mà cũng không tự mê xem! Đó là trong mê tự chuyển thân, quên bặt dấu trần. Muôn vật đâu còn lừa được nữa? Cốt là, phải Thấy đến chỗ Không Thấy, vượt qua tất cả chỗ nơi, không dừng lại bất cứ một chỗ nào. Vừa dừng lại tức liền Bị thấy!

Chúng ta hãy nghe vị tăng hỏi Thiền sư Hồng Chẩn:
- Khi trừ sạch trần thấy Phật thì thế nào?
Sư bảo:
- Phật cũng là trần.

Tại sao Phật cũng là trần? Bởi, đã trừ sạch hết trần, mà còn có Phật để thấy, thì Phật đó cũng là cảnh, tức thuộc trần bị thấy chứ gì! Người thấy tánh phải thấu tột qua chỗ này, không thể lầm lẫn.

Hòa thượng Vân Môn cũng từng bảo: "Ông nếu tương đương rồi thì hãy tìm con đường vào. Các đức Phật nhiều như số bụi nhỏ đang ở dưới gót chân ông. Tam tạng thánh giáo ở trên đầu lưỡi ông, chẳng bằng ngộ quách đi cho xong!"

Người người học đạo cần phải khám phá chỗ này, chớ chạy tìm hiểu đâu đâu, cũng đừng moi móc trong đám rừng chữ nghĩa. Ánh sáng chân thật chính ngay dưới gót chân mình. Hãy chín chắn ngó xuống xem! Kỵ nhất cúi đầu trầm ngâm là nguy!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12510)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14108)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10848)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10513)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11191)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11998)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13133)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13633)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33654)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11335)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12922)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13056)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11625)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17890)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11431)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11849)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11488)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18973)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12539)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11321)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13136)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15754)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11808)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11689)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12764)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12630)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13965)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12980)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12936)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13295)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12759)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12687)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11733)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11722)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12324)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12383)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19815)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11958)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11990)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16880)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12666)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15057)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16115)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12872)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12218)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11915)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11923)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13150)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16504)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13229)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12483)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11816)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19857)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11149)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11253)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10401)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11089)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10958)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10034)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11745)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant