Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

II. Ý chỉ tùy duyên

19 Tháng Tư 201100:00(Xem: 13597)
II. Ý chỉ tùy duyên

Một Sức Sống Chân Thật Giữa Thế Gian
THIỀN TÔNG ĐỐN NGỘ
Thích Thông Phương
Hội Thiền Học Việt Nam PL. 2547 - DL. 2003

BẢO NHẬM

II. Ý CHỈ TÙY DUYÊN

Sùng Tín ngay khi được Hòa thượng Long Đàm khai thị tâm yếu, Sư liền tỏ ngộ, sau đó bèn hỏi thêm:
- Làm sao gìn giữ?
Long Đàm bảo:
- Mặc tánh tiêu dao, tùy duyên phóng khoáng, chỉ hết tâm phàm, chẳng có Thánh giải khác.
Con đường bảo nhậm rất đơn giản như thế. Đã sáng được việc lớn ấy rồi, thì cứ ngay đó mà sống, không mong cầu thêm gì khác nữa. Vẫn sống bình thường trong cuộc sống hàng ngày, tùy duyên mà đối tiếp, ăn cũng ăn, mặc cũng mặc, làm việc cũng làm việc như mọi người, song không trụ vào một cái gì để mất mình trong đó. Điểm quan trọng là trong đây không tạo thêm nghiệp mới, mà nghiệp cũ phải tiêu mòn vì không có duyên để tiếp nối, lâu ngày thuần thục mới thành tự tại. Trái lại rồi tùy duyên tha hồ tạo nghiệp mới, nghiệp cũ lại tiếp tục tăng trưởng, đó là sai lạc đường tà, đó không phải là tùy duyên chân chánh. Tùy duyên như thế là mặc tình buông thả theo duyên, theo cảnh, chính đó là bị duyên cuốn, là tùy duyên tiêu sự nghiệp quý báu, rất nguy hiểm! Tùy duyên đúng lý cần phải thấu rõ:

 + THỨ NHẤT THẤU RÕ TÁNH KHÔNG

Muốn thấu lý tùy duyên, phải rõ suốt Tánh Không trong Bát Nhã. Nghĩa là, phải mở con mắt Bát Nhã, thấy rõ tất cả pháp trên đời không có gì thật cố định. Từ bản thân mình cho đến sự vật bên ngoài đều là tánh không, do duyên khởi tạm có. Thân thì đất nước gió lửa hợp thành, tế hơn thì từng tế bào từng tế bào chung họp lại. Tâm thì từng niệm từng niệm thiện ác, có không, buồn vui, giận ghét v.v… chung hợp. Cảnh thì từng nguyên tử từng nguyện tử kết lại thành. Trong đó có cái gì là thật thể cố định? Chính vì TÁNH KHÔNG mới có thể tùy duyên mà hiện khởi tất cả. Như gương, vì nó vốn không một cái gì nên nó có thể hiện đủ tất cả mọi thứ, nếu thật có một hạt bụi thì ngay hạt bụi đó nó không thể hiện cái khác. Cũng vậy, hư không vì nó không một cái gì nên nó có thể hiện đủ mọi vật. TÂM, không một cái gì nên nó có thể nghĩ đủ hết tất cả.

Năm ấm, vì tánh không nên có thể tùy duyên mà hiện lớn, hiện nhỏ, hiện mập, hiện ốm, hiện đen, hiện trắng, hiện trẻ, hiện già, hiện nam, hiện nữ… Nếu nó cố định là nam thì đời đời là nam không thể hiện nữ. Cố định là nhỏ thì suốt đời là đứa bé, không thể hiện thành người lớn. Cố định là người thì hiện người mãi, không thể hiện trời, hiện A tu la v.v… Vậy Bồ tát Quan Thế Âm làm sao có ba mươi hai ứng thân, khi hiện nam, khi hiện nữ ?

Đã rõ không một cái gì cố định thì bám chặt một chỗ làm gì để chịu khổ? Như vậy, tùy duyên là do rõ được TÁNH KHÔNG của các pháp, nên tùy duyên luôn luôn có ánh sáng Bát nhã đi theo, do đó không mê lầm. Trái lại, nhắm mắt mà tùy duyênđi xuống hố, vào chỗ u minh tối tăm hiểm nghèo.

Xưa ngài Tăng Triệu bị tội sắp hành hình, Sư thản nhiên nói bài kệ:
 Ngũ ấm nguyên phi hữu
Tứ đại bổn lai không
Tương đầu lâm bạch nhẫn
Nhất tự trảm xuân phong.

Nghĩa:
 Năm ấm vốn chẳng có
Bốn đại xưa nay không
Đem đầu đến dao bén
Giống hệt chém gió xuân.

Đó mới là thực sự biết tùy duyên. Với Sư, dù bị tử hình, vẫn không thấy buồn khổ, không sợ hãi, vì biết rõ năm ấm vốn không, bốn đại vô ngã, trong đó không thật có một cái gì để chết, một cái gì bị chém, nên chém đó như chém gió xuân vậy thôi. Thấy được như vậy là tùy duyên hết khổ. Nghĩa là, còn duyên thì làm Phật sự tiếp, hết duyên thì ra đi, không cố ghì lại để chịu khổ, không oán trách để tạo thêm nghiệp mới. Đây là thực sự BIẾT TÙY DUYÊN.

+ NHẬN RA BẢN TÁNH

Người nhận ra bản tánh chính mình luôn luôn hiện hữu, đây là của báu sẵn có nơi mỗi người, nên tùy duyên để sống trở về trong đó, đối mọi cảnh không lấy không bỏ, chỉ thuận với tánh mà sống không để mất nó, chính là khéo bảo nhậm.
Bài kệ tóm tắt bài phú Cư Trần Lạc Đạo của vua Trần Nhân Tông đã nói:

 Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.

Nghĩa:
 Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền
Báu sẵn trong nhà thôi tìm kiếm
Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.

Muốn sống trong lòng đời mà được vui với đạo thì phải khéo biết tùy duyên. Duyên đến thì làm, duyên qua liền thôi, không bám víu, không ghì níu, cũng không chối bỏ, không xua đuổi, khiến sạch hết dấu vết cái TA xen vào trong đó. Đói thì ăn, mệt thì ngủ giống như người đời nhưng không phải người đời, đòi hỏi ăn thế này thế nọ, nằm trằn trọc tính toán đủ điều mà chỉ một lòng rỗng rang vô sự. Sở dĩ được như vậy là vì nhận biết rõ trong nhà có sẵn của báu vô giá, không gì ở thế gian sánh kịp, đâu còn phải dong ruổi tìm kiếm theo bên ngoài nữa. Chính ngay đây, đối trước ngoại cảnh, mọi duyên mà vô tâm, không khởi niệm trụ vào cảnh, đó là thiền rồi. Tức là đối trước cảnh mà không mất mình, vẫn luôn luôn giữ của báu trong nhà. Đấy là tùy duyên mà thường sáng tỏ, không mê mờ, lúc nào cũng có ánh sáng chân thật đi theo, không đặt thành một cái TA trong đó: Nên ăn hay chẳng nên ăn, nên ngủ hay chưa?
Thiền sư Nghĩa HoàiThiên Ybài kệ:

 Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủ vô lưu ảnh chi tâm.

Nghĩa:
 Nhạn bay qua trên trời
Bóng chìm dưới nước lạnh
Nhạn không ý để dấu lại
Nước không có tâm giữ bóng kia.

Tức là đi qua tất cả cảnh mà không để lại dấu vết gì, không lưu giữ trong tâm một bóng dáng. Đó mới thật là tùy duyên tự tại. Gọi là vào nước không quậy sóng, vào rừng không động lá. Chỗ này có thể bắt chước được sao?
Có vị tăng hỏi ngài Triệu Châu:
- Thế nào là cầu đá Triệu Châu?
Sư đáp:
- Độ lừa độ ngựa.

Đây hỏi cầu đá, nhưng ngầm ý muốn chỉ chỗ sống kia. Triệu Châu đáp rất bình thường: “Độ lừa độ ngựa.” Nghĩa là nó sẵn sàng đưa lừa, đưa ngựa đi qua, lừa ngựa đi qua trên đó, nó không khởi niệm thuận cho hay chối bỏ, ngăn cản; không cố chấp đưa người sang quý, đưa hàng Bồ tát Thánh hiền còn thú vật thì bỏ lại. Nếu thấy như thế thì chưa thật thấy cầu đá Triệu Châu trong đây rồi. Chỉ có điều là, nó độ lừa, độ ngựa bình đẳng nhưng không đồng hóa mình với lừa, với ngựa, khiến mất mình trong chỗ lừa ngựa đó, là nguy! Thế là tùy duyên mà không đòi hỏi theo một cái TA, không sanh niệm lấy bỏ để tạo thành nghiệp mới, tự tánh luôn sáng ngời trong mọi duyên. Bảo nhậm như thế mới thật sự là MỘT PHEN SÁNG HẰNG SÁNG MÃI !

+ CỐT HIỂU RÕ THẾ GIAN TƯƠNG ĐỐI

Để biết tùy duyên, cốt phải hiểu rõ lẽ thật của hế gian là luôn luôn tương đối, tất cả đều nằm trong đối đãi mà thành, không có một cái gì cố định hoàn toàn, thì cố bám chặt một chỗ để làm gì? Dù bám cũng không thể được! Hãy xem thiện thì đối với ác, phải đối với quấy, vui đối với buồn, Thánh đối với phàm, cha đối với con, nam đối với nữ, ta đối với người v.v… không có một cái gì đứng riêng lẻ mà thành. Vậy mà chúng ta cứ đòi hỏi một chiều, đòi hỏi cái toàn mỹ, làm sao có? Không thể có mà đòi hỏi, khi không được liền khổ! Nhưng tâm lý con người, ai ai cũng muốn toàn mỹ, đó là mê. Bởi chính mình còn chưa toàn mỹ mà muốn mọi người toàn mỹ làm sao được? Ngay nội tâm mình cũng thường tự mâu thuẫn với chính mình. Có khi ngoài mặt thì vui vẻ, mà trong lòng đang buồn bả đau khổ. Mới đó muốn xả hết để tu hành, kế lại đổi ý tiếc thế gian! Vừa muốn đi nghe pháp, kế đổi ý muốn đi chơi v.v… Ngay mình với mình còn trái ngược như vậy, mà đòi hỏi bên ngoài phải toàn mỹ, phải toàn như ý là điều không thể có. Không thể có mà cứ đòi hỏi là khổ thôi! Là không biết tùy duyên!
Kìa! Phật cũng có người chê! Kẻ uống rượu say sưa, kẻ trộm cắp vẫn có người khen! Ai khen? Tức đồng bọn với nhau đó! Kinh Pháp Cú có câu:
 Xưa, vị lai và nay
Đâu có sự kiện này
Người hoàn toàn bị chê
Người trọn vẹn được khen.

Lẽ thật từ xưa tới nay, trên thế gian này không có ai là người hoàn toàn được khen, dù là bậc Thánh; nhưng cũng không có người hoàn toàn bị chê, dù là kẻ xấu. Do đó, người hiểu đạo thì bình tĩnh trước lời khen chê của thế gian.

Đó là nói về khen chê, về "được mất" cũng vậy, có được thì có mất, nếu người biết tùy duyên khéo chuyển thì vẫn an vui, trái lai thì buồn khổ. Như chuyện bà Tỳ Xá Khư, một nữ thí chủ quan trọng trong thời đức Phật. Một hôm bà khoác cái áo choàng rất quý giá để đi chùa. Khi đi đến cổng tịnh xá, bà cởi áo choàng ra đưa cho người hầu gái cầm giữ. Lúc ra về, cô hầu gái vô ý, bỏ quên lại. Về đến nhà sực nhớ, bà bảo đứa hầu gái quay trở lại tìm, nhưng dặn rằng nếu đã có vị Tỳ kheo nào đã đụng đến chiếc áo đó thì thôi, không nên lấy về. Cô hầu gái đến tịnh xá hỏi thăm thì biết Đại đức A Nan Đà đã cất giữ cái áo choàng, nên trở về báo lại cho bà. Bà Tỳ Xá Khư liền đến gặp Phật và tỏ ý muốn làm một việc thiện với số tiền bán chiếc áo choàng quý giá ấy. Đức Phật khuyên bà nên xây dựng một ngôi tịnh xá cho chư tăng có nơi trú ngụ. Vì không có ai đủ tiền mua chiếc áo đắt giá ấy, cuối cùng bà bỏ tiền ra mua lại và dùng số tiền ấy xây dựng một ngôi tịnh xá khang trang dâng lên chư tăng. Sau khi làm lễ dâng ngôi tịnh xá xong, bà gọi cô hầu gái đến và bảo: “Nếu không có con vô ý bỏ quên chiếc áo choàng thì hẳn ta không có cơ hội để tạo nên phước báo này. Vậy thì ta xin chia phần phước này với con.”

Đây là chuyển MẤT thành ĐƯỢC. Nếu như người khác, cứ bám chấp vào cái ta đã mất hẳn sanh tâm tức giận, chửi mắng, đánh đập người hầu gái, thế là tự mình vừa bị lửa sân đốt khổ, lại vừa tạo thêm nghiệp dữ cho đời sau chịu khổ tiếp. Vừa gây khổ cho mình, vừa làm khổ cho người. Con ngay đây biết chuyển trở lại như bà Tỳ Xá Khư, thì chẳng những bà đựơc niềm vui cúng dường, người hầu gái cũng vui, chư tăng cũng vui và ngày nay chúng ta nghe nhắc lại cũng vui theo!

Vì vậy, người biết rõ thế gian đều tương đối, không có cái gì hoàn toàn, thì không một bề cố chấp theo ý mình, không bám chặt vào cái TA cố định để chịu khổ, mà khéo biết tùy duyên sống an lành giữa dòng đời tương đối.

 + PHẢI BIẾT LINH ĐỘNG KHÔNG CỐ CHẤP

Đã hiểu rõ lẽ thật như trên, cần có một cuộc sống cởi mở linh động và sáng gnời, tùy duyên không khư khư ôm lấy một chiều. Như chuyện ông Lưu Ngưng Chi đi giày, có người đến nhận là giày của họ, ông liền cởi giày đưa cho người ấy ngay. Sau đó, người ấy tìm được giày mình, vội đem giày trả lại cho ông, ông nhất định không nhận. Thẩm Lân Sĩ cũng đi giày, có người đến nhận là giày của họ, ông cũng cởi đưa cho họ. Sau, người ấy tìm thấy giày của mình, liền đem giày đến trả lại cho ông, ông nói: “Không phải giày của bác à!” Ông cười và nhận lại.

Tô Thức nói:- Việc này tuy nhỏ mọn, song ở đời ta nên cư xử như ông Lân Sĩ, không nên như ông Ngưng Chi. (Cổ Học Tinh Hoa)

Giày mình đang mang, người đến nhận là của họ, liền cởi ra đưa cho họ, thực là một việc ít có khó làm! Song, người đã biết lầm. Đem trả lại thì cũng phải thông cảm nhận lại cho người, khiến người giải tỏa lỗi lầm. Nếu cứ khư khư giữ lấy cái phải của mình, e rằng chưa trọn tốt!

Đó là câu chuyện của nhà Nho. Đến trong nhà Thiền, chúng ta thấy tinh thần tùy duyên của thiền rất cao tuyệt. Thiền sư Bạch Ẩn Huệ Hạc, lúc tiếng tăm Sư đã lên cao, người người đều ca tụng Sư sống rất torng sạch. Bỗng một hôm ở gia đình bán thực phẩm gần đó có một cô con gái xinh đẹp, bất chợt họ phát hiện cô có thai. Cha mẹnổi giận trách mắng cô và gạn hỏi ai là tác giả bào thai đó. Cô nói tên: Bạch Ẩn. Cha mẹ cô liền đến chùa tìm Sư tặng cho đủ những lời không tốt của thế gian. Sư chỉ nói: “THẾ À!”

Khi đứa bé được sanh ra, nó được mang đến chùa giao cho Sư. Từ đó, danh dự của Sư bị xuống dốc hẳn, Sư vẫn thản nhiên. Sau cô gái không chịu nỗi sự ray rứt nơi cõi lòng, thú thật với cha mẹ rằng:- Cha đứa bé không phải là ngài Bạch Ẩn mà là chàng thanh niên bán cá ngoài chợ. Cha mẹ cô bật ngửa, lo sợ, vội vàng đến sám hối với Sư và xin nhận lại đứa bé. Sư cũng chỉ tốt lên:“THẾ À!”

Chúng ta thấy tinh thần tùy duyên của Thiền sư Bạch Ẩn thật là tuyệt diệu! Được tiếng tăm không hãnh diện, mất tiếng tăm không chút buồn khổ, xem sự đựơc mất như trò chơi. Người nói oan, người biết lầm, vẫn thản nhiên như không cò chuyện gì, không chút bận lòng. Khi nhận đứa bé không buồn giận, không oán hờn. Khi trả đứa bé, không trách mắng, không nặng lời, chỉ một câu: “THẾ À!” trước sau trong lòng vẫn bằng phẳng không chút gợn sóng. Chỗ này dễ bắt chứơc được sao? Nếu không phải người thực sự có sức sống chân thật sâu dày bên trong, không thể nào làm được.

Còn đây, Thiền sư Chơn gặp thời vua Võ Tông hủy diệt Phật giáo, bắt tăng trẻ phải hoàn tục, Sư cũng hoàn tục. Lúc đó, Sư có bài kệ dạy chúng:

 Nhẫn tiên lâm hạ tọa thiền thì
Tằng bị Ca Vương cát tài chi
Huống ngã thánh triều vô thử sự
Chỉ linh hưu đạo diệc hà bi?

Nghĩa:
 Nhẫn tiên thiền toạ ở rừng sâu
Từng bị Lợi Vương chặt cắt đau
Huống nay Thánh chúa không việc ấy
Chỉ bắt thôi tu đáng buồn đâu?

Đây là Sư hằng có sức sống chân thật nơi nội tâm, nên tùy hoàn cảnh mà thuận sống, không có gì trái nghịch, không có gì ngăn chướng. Sư đã thực sự có sức sống thiền.

+ TÙY DUYÊN LÀ PHÁ NGÃ KIẾN

Với tinh thần tùy duyên là phá cái kiến chấp ngã, tức luôn luôn thấy có TA thật, vật thật, cái thấy có ta là trên hết, hằng có một cái TA ngự trị nơi mình. Do đó, cứ chấp chặt một là một, hai là hai, không thể thay đổi. Ta nghĩ thế nào thì bảo vệ tối đa cái nghĩ ấy, vì nó là TA mà! Sợ mất cái TA! Đấu tranh, chết chóc, đau thương, không dừng, cũng vì đó! Song hãy xét kỹ: Cái gì là cái nghĩ của ta? Đem chỉ ra xem! Kinh Kim Cang Phật dạy: “Nói ngã kiến tức chẳng phải ngã kiến, đó gọi là ngã kiến.” Phật xác định định rõ, nói là ngã kiến tức là cái kiến chấp ngã, mà thực không cố định có cái kiến chấp ngã. Chấp ngã chỉ là một KHÁI NIỆM về TA vậy thôi. Tìm đâu ra cái kiến chấp để chỉ? Mở sáng con mắt Bát nhã, nhận rõ cái thấy sai lầm đó, liền hết lầm, không chỗ để chấp.

Hãy xem một viên kim cương, ta thấy là quý, đứa bé thấy là món đồ chơi, tùy tâm tưởng sai biệt mà thấy thành quý, thành tiện, có gì cố định đâu mà khăng khăng bám chặt không chịu buông, để chịu khổ!
Trong Tuyệt Quán Luận có đoạn nói lên ý nghĩa tùy duyên này.

Hỏi : - Con thấy có người học đạo, phần nhiều chẳng chuyên ròng giữ giới, chẳng chăm lo gìn giữ oai nghi, chẳng giáo hóa chúng sanh, cứ mặc tình thoải mái là ý gì?

Đáp:- Là muốn quên tất cả tâm phân biệt, muốn dứt tất cả kiến chấp có, tuy tợ mặc tình thoải mái mà bên trong thực hành không gián đoạn.

Tức là, ở đây vì phá niệm SẠCH NHƠ, thấy ta đây tu hành thanh tịnh, nếu bị người chê liền buồn giận, đó là chưa thật thanh tịnh, cho nên Thiền sư mới có những hành động khó hiểu như trên. Bởi tướng thanh tịnh cũng không cho chấp, không cho để lại dấu vết ở trong tâm thể kia. Tuy nhiên, chỗ này dễ bị hiểu lầm bắt chước. Người chưa thật có công phu, nghe nói sống thoải mái để phá kêín chấp “CÓ” trên hình thức, rồi cũng bắt chước sống buông lung, ngang bướng, làm như vẻ tự tại, mà thực trong lòng chưa phải. Đó là bệnh!

Trong đây cần chú ý! "Tuy bên ngaòi như vậy nhưng BÊN TRONG THỰC HÀNH KHÔNG GIÁN ĐOẠN". Nghĩa là, bên trong luôn luôn sáng ngời không mê, không để một chút lọt hở khiến niệm khác xen vào. Nhất là không để cái TA xen vào liền thành bệnh hoạn.

Nên nhớ, thuận tánh mà sống tùy duyên để quên mọi kiến chấp phân biệt, không sanh tâm tạo tác thêm nghiệp mới, đó là bảo nhậm. Trái lại, làm như tự tại để tỏ ra TA đây không chấp, bèn thành CHẤP CÁI KH6ONG CHẤP, vẫn là bệnh nặng khó chữa. Vì bệnh mà không biết, tưởng mình là lành nên đâu chịu uống thuốc!

Song hãy nhớ kỹ! Làm để phá tâm phân biệt, tức là chưa sạch hết phân biệt mới phá! Nếu đã sạch thì còn phá cái gì? Vì vậy, khi nói: “Tôi làm để phá tâm phân biệt” thì biết ngay trong lòng đang còn có tâm phân biệt chưa thật sạch, chưa thật phải tự tại, chớ vội lầm mà sanh tâm kiêu mạn! Cũng như nói: “Tôi phá chấp cái này, phá chấp cái kia…” tức là “tôi còn chấp” mới phá! Chỗ này rất tế nhị, chớ lầm!

+ TÙY DUYÊN KHÔNG LẬP DỊ

Một điểm quan trọng nữa cần thấu rõ là, vì tùy duyên nên không làm khác người, không lập đị để tỏ ra mình là bậc đạt đạo khiến người cung kính, chính đó là tướng khác của tướng ngã. Ở đây, cần làm tất cả, cũng ăn, cũng mặc, cũng ngủ, cũng sống như mọi người, song luôn luôn không rời tự tánh, không để vắng mặt ánh sáng tự tâm thì tùy duyên mà không biến đổi, không làm tiêu sự nghiệp.

Hòa thượng Quán Khê khi đến chỗ Mạt Sơn, Sư hỏi bà ni Liễu Nhiên:
- Thế nào là chủ Mạt Sơn?
Liễu Nhiên đáp:
- Chẳng phải tướng nam nữ.
Sư bảo:
- Sao chẳng biến đi?
Liễu Nhiên đáp:
- Chẳng phải thần, chẳng phải quỷ, biến cái gì?
Sư kính phục, ở lại mạt Sơn làm tri viên ba năm.

Hỏi chủ Mạt Sơn, đáp chẳng phải tướng nam nữ. Vì cái ấy đâu thuộc tướng trạng gì, song bảo biến đi là lầm. Bởi nó vốn sẵn như vậy, không phải do biến mất tướng nam nữ mà thành. Biến tướng nam, tướng nữ cho mất đi, cũng là ở trên tướng mà bàn, vẫn thuộc lấy bỏ, đâu thể thấy được người chủ kia! Trong khi đó, người chủ kia vẫn ở ngay tướng nam nữ này, mà không phải tướng nam nữ, vẫn đi đứng tới luikhông tướng tới lui, hiện trong mọi hành động mà không rời tự tánh, đó mới là chân thiền. Vì vậy, trong đây vừa có một chút tình chấp là không biết tùy duyên.
Có vị ngoại đạo đến hỏi Phật:
- Hôm qua ngài thuyết pháp gì?
Phật đáp:
- Hôm qua ta thuyết pháp định.
Ngoại đạo hỏi:
- Hôm nay ngài thuyết pháp gì?
Phật đáp:
- Hôm nay ta thuyết pháp bất định.
Ngoại đạo hỏi:
- Hôm qua giảng pháp định, vì sao hôm nay giảng pháp bất định.
Phật nói:
- Hôm qua định, hôm nay bất định!
Phật đáp quá hay
! Ai thấy chăng? Ngoại đạo chấp theo ngôn từ, nghe nói định hiểu là định, nghe nói bất định hiểu là bất định nên thắc mắc sao Phật nói lạ. Không ngờ Phật phá cái chấp cố định của ông, không cho ôgn chấp chặt một chỗ thành pháp chết. Tại sao hôm qua nói pháp định, hôm nay nói pháp bất định? Bởi vì, nếu một bề là pháp định thì đâu có ngày hôm nay. Có hôm qua, có hôm nay thì rõ ràngbất định rồi. Nên Phật nhấn mạnh: “Hôm qua định, hôm nay bất định.” Như vậy, nếu cứ một bề chấp chặt hôm qua là hôm qua, hôm nay là hôm nay, đó là mê, là sống với quá khứ chết, thiếu sức sống sáng tạo. Cũng vậy, nghe nói định pháp, chấp định pháp, tức là mê, là kẹt trên ngôn ngữ khái niệm.

+ TÙY DUYÊNSÁNG TẠO

Bởi khéo tùy duyên, không bám chặt vào một cái TA cố định nào đó, do đó mới có sức sống sáng tạo vi diệu, không đóng khung vào một chỗ chết.

Thiền sư Pháp Diễn từng có một bài pháp thiền nói về ăn trộm. Sư bảo: “Ta trong đây, thiền giống cái gì? Như có người giỏi nghề ăn trộm, anh có một đứa con, một hôm đứa con gnhĩ rằng: ‘Sau thời của cha ta, ta làm sao để nuôi sống gia đình? Ta cần phải học theo sự nghiệp của người mới được.’ Đứa con bèn đem ý nghĩ đó thưa với người cha. Người cha bảo: ‘Tốt lắm.’ Đêm nọ, anh dẫn người con đến một ngôi nhà đồ sộ, khoét vách vào trong nhà. Gặp cái rương to anh mở nắp rương ra, bảo đứa con vào trong đó lấy đồ. Đứa con vừa chui vào trong rương thì bất ngờ anh đóng ập nắp rương lại, rồi khóa luôn. Xong, anh ra ngoài sân đập cửa ầm lên đánh thức người trong nhà. Người nhà tỉnh dậy, vội thắp đuốc báo động thì biết rõ có ăn trộm nhưng tìm khắp nơi không thấy, cho rằng đã đi khỏi rồi. Đứa con trong gương tự nghĩ hận cha mình, không biết làm sao hành động như thế. Nó chợt nghĩ ra một kế, bèn cào vào thành rương giả tiếng chuột gặm. Người nhà nghe tiếng, gọi đứa ở thắp đèn xem xét lại cái rương. Rương vừa được mở ra, đứa con ấy tung mình phóng ra, thổi tắt đèn, xô ngã chị ta, chạy ra ngoài. Người nhà đuổi theo đến giữa đường, đứa con ấy thấy bên đường có cái giếng, bèn ôm một tảng đá to gần đó ném vào trong giếng. Mọi người vội bao quanh miệng giếng để tìm tên trộm. Đứa con chạy thẳng về nhà gặp người cha vừa định trách, người cha vội bảo: ‘Khoan khoan, con hãy nói vì sao ma chạy được về đây? Đứa con thuật lại xong, anh ta liền cười bảo: ‘Như vậy thì ngươi đã thành nghề rồi!’”

Thiền sư nói thiền như vậy đó. Cho thấy ăn trộm là pháp xấu của thế gian nhưng qua tay Thiền sư cũng thành pháp thiền khai thị cho người. Nếu một bề cho là pháp xấu, là cái bị chê trách, nghe nói liền tỏ ý chê bai, khinh khi, tức bị khái niệm cũ kỹ lấp bít trong đầu, làm cho mất ánh sáng chân thật.

Bảo nhậm đến đây là đã thành một sức sống thật sự tuyệt diệu, khó nghĩ bàn!

Tóm lại, tùy duyên là gì? Tức là KHÔNG CHỖ BÁM. Đã rõ tất cả pháp có ra, từ pháp thế gian đến pháp xuất thế gian đều là nhân duêyn đối đãi thành, không có một pháp thật thì tại sao lại bám chấp vào một chỗ để chịu khổ? Để đóng khung mình một cách đáng thương!

Người biết tùy duyên chân chánh, tức là quên tướng ngã, luôn luôn tự tánh hiện hữu sáng ngời không gián đoạn, không chết trong một khuôn khổ nào, do đó không thể bắt chước. Vì đã tùy duyên tức không cố định, vậy làm sao bắt chước? Bắt chước là thành có cái khuôn rồi!

Điểm cần chú ý là: Tùy duyên mà còn có tướng ngã xen vào, tức là bệnh, không phải thực.

Phải nhớ rõ: Tùy duyên là tiêu nghiệp cũ mà không tạo thêm nghiệp mới. Trái lại, tùy duyên mà tạo thêm nghiệp mới, nghiệp cũ lại đậm hơn là nguy! Đó là con đường đi xuống, gọi là bị duyên chuyển, chìm mãi trong sanh tử, là phiêu linh lãng tử lang thang trong các nẻo luân hồi.

câu chuyện để cảnh tỉnh: Xưa có một Thiền sư ăn uống hỗn tạp, không chọn lựa chay mặn, nhiều đệ tử thấy vậy bắt chước theo. Một hôm Sư bày một bữa cúng ngay chỗ thiêu xác chết, rồi lấy thịt thiêu còn sót lại đem gộp chung vào thức ăn mà ăn. Đệ tử đều ói mửa, chạy mất, Sư bèn bảo: “Ta nhiều đời thanh tịnh mới không chọn lựa. Các ông có thể cùng ta ăn món này mới nên duy trì việc ăn uống.” Từ đó, cả chúng sợ hãi, lo vâng giữ giới luật, nghiêm chỉnh tu hành.

Để thấy, người bắt chứơc mà torng tâm còn dấy niệm phân biệt nặng nề, còn đủ tình yêu ghét chưa quên, còn thích ăn ngon mặc đẹp, còn chán dở ghét xấu, mà bảo tùy duyên không ngại, đó là tự dối mình, dối người thôi, nhưng không thể dối người mắt sáng, không thể dối được nhân quả. Với Thiền sư, tâm phân biệt đã sạch, có sức sống chân thật sâu dày bên trong mới tùy duyên tự tại để cảnh tỉnh người.

Như vậy, với một ý nghĩa tùy duyên này, nếu người thấy đạt chỗ cùng tột để sống, tức đã cởi mở tình chấp rất nhiều, là thành tựu công phu bảo nhậm vững vàng, không phải dễ dàng như cái hiểu thông thường, không phải tùy duyên là gặp gì làm nấy để mất mình trong duyên. Hoặc tùy duyên để tỏ ra ta đây tự tại, ta đây không vướng mắc, chính ngay đó đã vướng mắc rồi! Vướng mắc cái gì? Vướng mắc ngay lý tùy duyên. Đó là bệnh cần phải tránh.

Để tóm tắt lại ý nghĩa này: TÙY DUYÊN LÀ LUÔN LUÔN SÁNG NGỜI, TỰ TẠI KHÔNG CHỖ NÀO ĐỂ BÁM,KHÔNG CÓ XEN TƯỚNG NGÃ VÀO. Đó là TÙY DUYÊN, tức VÔ TRỤ: Một công phu thiết thực của người đạt đạo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11636)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11961)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11114)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11347)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12063)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12561)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10767)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17982)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11728)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9948)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12350)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15341)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11241)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12095)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15362)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12002)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12406)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11185)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12085)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10615)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12556)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13173)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14841)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12682)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16577)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19666)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13110)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12669)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12265)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11851)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10902)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13524)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11951)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11843)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11635)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12768)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14516)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12614)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13626)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12894)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9872)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18016)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11165)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9082)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13050)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10308)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12199)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15314)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12215)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11481)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14271)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19700)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14151)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24608)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10692)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant