Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

II. Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô chẳng thể được

19 Tháng Tư 201100:00(Xem: 13686)
II. Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô chẳng thể được

Một Sức Sống Chân Thật Giữa Thế Gian
THIỀN TÔNG ĐỐN NGỘ
Thích Thông Phương
Hội Thiền Học Việt Nam PL. 2547 - DL. 2003

TU THIỀNCHỨNG ĐẮC HAY KHÔNG?

II. TU CHỨNG TỨC CHẲNG KHÔNG, NHIỄM Ô CHẲNG THỂ ĐƯỢC

Để rõ việc chứng đắc, chúng ta nghe câu chuyện ngài Hoài Nhượng đến tham vấn Lục Tổ liền sáng tỏ.

Sư đến gặp Lục Tổ, Tổ hỏi:

- Ở đâu đến?

Sư thưa:

- Từ Tung Sơn đến.

Tổ hỏi:

- Vật gì thế ất đến?

Sư không đáp được. Trải qua tám năm Sư có tỉnh bèn đến Tổ thưa:

- Con có chỗ lãnh hội

Tổ hỏi:

- Lãnh hội thế nào?

Sư thưa:

- Nói giống một vật tức chẳng trúng.

Tổ gạn lại:

- Có tu chứng chăng?
Sư thưa:
- Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô chẳng thể được.
Tổ bảo:

- Chỉ cái "chẳng nhiễm ô" này, là chỗ hộ niệm của chư Phật, ông đã như thế ta cũng như thế.

Qua chỗ đối đáp của ngài Hoài Nhượng, cho thấy Sư đã thật sự có chỗ sống đàng hoàng, không phải chỉ hiểu trên lý suông. Xem Sư trả lời: “Nói giống một vật tức chẳng trúng” chỗ chân thật đó vốn vượt ngoài mọi sự so sánh hiểu biết của thức tình phân biệt. Có chỗ so sánh tức thành cái bị biết rồi. Song Tổ còn e rằng Sư chỉ hiểu trên lý giải thôi mà chưa có chỗ thực chứng, nên gạn lại: “Có tu chứng chăng?” nếu là người kiến giải suông sẽ đáp ngay: “Không có tu chứng.” Vì nó không giống một vẫt thì tu chứng cái gì? Song với Sư thì trả lời chắc thật: “Tu chứng tức chẳng không, nhễm ô chẳng thể được.” Nghĩa là, tuy trong ấy nói giống một vật cũng không trúng, không thể so sánh hiểu biết được, mà không phải là chỗ nói suống, chỉ có trên ngôn ngữ. Trái lại, trong đó có thể chứng nghiệm rõ ràng, người có công phu chân thật khế hợp thì tự cảm nhận không nghi ngờ. Chỉ có một điều là “nhiễm ô nó chẳng thể được", xưa nay nó vốn chưa từng bị nhiễm ô, cũng không có cái gì làm nhiễm ô được nó. Nếu làm nhiễm được nó, nó thành cái vô thường rồi! Đã nhiễm ô chẳng thể được thì nói tu chứngthực không có cái gì khác để tu, để chứng. Lời đáp rất đầy đủ cả hạnh và giải, vì vậy Lục Tổ vừa nghe qua liền ấn chứng ngay: “Chính cái chẳng nhiễm ô này là chỗ hộ niệm của chư Phật, ông đã như thế ta cũng như thế.” Nghĩa là, ông thấy thấu được như thế, là thấu được chỗ sống của chư Phật. Chư Phật thành Phật là do giác ngộ chỗ này và sống viên mãn, trọn vẹn trong đó mà thành thôi. Rời chỗ đó thì Phật hết là Phật, nên nói là chỗ "hộ niệm", tức giữ gìn không thể sót mất. Ông đã như thế thì ta cũng như thế, tức chỗ thấy của ông khế hợp chỗ thấy của ta, không còn cách biệt, đó là ấn chứng, là truyền tâm ấn. Người đứng bên ngoài nghe nói truyền tâm ấn, liền tưởng tượng có cái gì đặc biệt để trao truyền khiến mình không hiểu nổi, từ đó nảy sinh ra những cách truyền lạ lùng bí mật. Quả là lầm lẫn ý Tổ, trở thành xuyên tạc và dối gạt lẫn nhau. Người học thiền phải chín chắn nhận rõ chỗ này!

* KHI NÓI KHÔNG CHỨNG ĐẮC

Trong nhà thiền khi nói vô sở đắc là có ý chỉ sâu xa trong đó.
+ Thứ nhất, là ngầm chỉ cái sẵn có
. Nghĩa là, thể chân thật vốn là tự tánh sẵn có, không do công phu tạo tác bên ngoài mà thành, không do ai truyền trao cho được. Bởi vậy, với ngài Thần Tú: “Luôn luôn siêng lau chùi” là chỗ thấy còn trên hình thức công phu tạo tác bên ngoài, chưa thấu được chỗ “vốn chẳng thể nhiễm ô” nên chưa được vào cửa Tổ. Lục Tổ: “Xưa nay không một vật” thì có gì được mất trong ấy nữa? Liền đó được vào cửa.

Còn kia, Bá Trượng hỏi Mã Tổ:

- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?

Mã Tổ đáp:

- Chính là chỗ ông bỏ thân mạng.

Muốn biết chỉ thú hay yếu chỉ Phật pháp, chính là chỗ bỏ thân mạng của ông. Chỗ đó làm sao hiểu? Tức phải bặt hết mọi chỗ nương tựa, không còn gì để bám víu, để suy nghĩ hiểu biết. Trong đó còn ai được? Được cái gì ?

Xưa có vị Tỳ kheo hỏi Thế Tôn:

- Theo chỗ thấy của con thì đối trong pháp của Thế Tôn, vừa có chỗ chứng là chưa phải, vậy Thế Tôn sẽ chỉ dạy cái gì?

Thế Tôn bảo:

- Này Tỳ kheo! Ta sẽ chỉ dạy cái gì? Chính đó là câu hỏi của ông.

Lời Phật thật sâu xa thay! "Ta sẽ chỉ dạy cái gì? Chính đó là câu hỏi của ông". Ngay câu hỏi đó chính là câu trả lời rồi, còn suy tìm cái gì khác nữa đều chẳng phải. Câu hỏi rất hay, câu đáp rất chính xác, người nhạy bén liền đó tự nhận là xong.

Kinh Kim Cang, Phật bảo Trưởng lão Tu Bồ Đề: “Thật khôngpháp Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nếu có pháp Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, Phật Nhiên Đăng tức chẳng thọ ký cho Ta: ‘Ông ở đời sau sẽ được thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni.’ Do thật không có pháp được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì vậy Phật Nhiên Đăng thọ ký cho ta, nói lời thế này: ‘Ông ở đời sau sẽ được thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni.’”

Tức lúc đó Phật còn là vị Bồ tát, hiện thân làm đồng tử Thiện Tuệ cúng dường phật Nhiên Đăng năm cành hoa sen xanh, trải tóc lót bùn cho Phật đi qua, được Phật Nhiên Đăng thọ ký trải qua chín mươi mốt kiếp sau sẽ thành Phậtcõi Ta bà này, hiệu là Thích Mâu Ni.

Người học trên văn nghĩa liền hiểu, do Phật Nhiên Đang thọ ký nên Phật Thích Ca mới được thành. Không ngờ đây là một ý nghĩa sâu xa vượt ngoài văn tự. Nếu thực sự có cái Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác để trao cho được, tại sao Phật Nhiên Đang không trao cho ngay lúc đó đi mà phải thọ ký xa tít chín mươi một kiếp về sau này, lúc đó ai trao cho ai mà thành? Rồi thành với một cái hiệu là "Thích Ca Mâu Ni". Phật ở cái hiệu đó chăng? Rõ ràng trong đây có ngầm ý chỉ: "Thành đó" là thành cái vốn sẵn có của phật Thích Ca thôi, Phật Nhiên Đăng không có trao cho một cái gì khác. Thọ ký chỉ là một phương tiện để xác chứng niềm tin vững vàng cho người, chớ không phải do thọ ký mới có được. Nếu thực sự có cái Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác để trao cho, thì ngay lúc đó Phật Nhiên Đăng đã trao cho đồng tử Thiện Tuệ rồi, đâu đợi phải thọ ký xa xôi về sau! Người tu Phật không thể lầm trên điểm này!

+ Thứ hai, nói không chứng đắc là trừ sạch tướng ngã. Bời người tu mà thấy có được Đạo, được ngộ, liền có tự đắc, tự mãn, tự kiêu trở thành thiền bệnh. Đâu biết, vừa thấy có được tức có nhiễm ô rồi! Là rớt bên ngoài cửa Tổ . Do đó, nhà thiền rất cẩn thận điểm này.

Như Hòa thượng Nam Tuyền, một hôm cúng trai Mã Tổ, Sư bèn hỏi trong chúng:

- Cúng trai Mã TổMã Tổ có đến chăng?

Không ai trả lời được. Lúc đó Lương Giới còn là Sa di, liền bước ra thưa:

- Đợi có bạn liền đến.

Nam Tuyền bảo:

- Chú nhỏ tuy là hậu sanh rất dễ giũa gọt.

Sư liền thưa:

- Hòa thượng chớ ép kẻ lành thành đứa giặc.

Cúng trai Mã Tổ, hỏi: “Mã Tổ có đến chăng?” là hỏi Mã Tổ nào? Đây là ngầm chỉ pháp thân. Pháp thân thì không hình tướng nên đâu có đến đi. Nhưng nếu một bề trống rỗng không ngơ thì để làm gì? Lương Giới đáp: “Đợi có bạn liền đến.” Nghĩa là, tuy pháp thân vốn vô tướng mà không phải là rỗng suông, không ngơ. Trái lại nếu có bạn, tức đủ duyên, người có công phu khế hợp, thì nó liền hiện, liền tự cảm nhận ngay. Sư đáp rất khéo, nên ngài Nam Tuyền khen: “Tuy là hậu sanh rất dễ giũa gọt.” Nếu là người khác nghe vậy hẳn tự thấy hài lòng, thành mắc kẹt. Lương Giới tự biết mình, không bị lời nói bên ngoài lừa, nên thưa: “Chớ ép kẻ lành thành đứa giặc.” Nếu lầm nhận tiếng khen đó để lộ tướng ngã ra, tức liền thành bệnh, chớ vội vui mừng!

Cũng như trường hợp Thiền sư Nghĩa Huyền lúc còn ở với Hòa thượng Hoàng Bá. Một hôm Sư đang ngồi trước tăng đường, thấy Hoàng Bá đến, Sư liền nhắm mắt lại. Hoàng Bá làm thế sợ, rồi trở về phương trượng. Sư đi theo đến phương trượng lễ tạ. Thủ tọa đứng hầu bên cạnh, Hoàng Bá nói với Thủ tọa:

- Vị tăng này tuy là hậu sanh lại biết có việc này!

Thủ tọa nói:

- Ông Hòa thượng gót chân chẳng chấm đất, lại đi chứng cứ cho kẻ hậu sanh.

Hoàng Bá liền tự vả miệng một cái. Thủ tọa nói:

- Biết là được.

Chỗ đặc biệt trong nhà thiền là thế. Hoàng Bá cảm hứng, thuận tiện bên cạnh có Thủ tọa liền thốt lời khen Nghĩa Huyền. Thủ tọa không khen hùa theo mà nhắc khéo. Hoàng Bá tự thấy đã nói hớ rồi, nên tự vả miệng, không để cho người tự mãn, tự đắc. Đây là những kinh nghiệm cảnh tỉnh cho người, chưa gì đã tự mãn cho mình đã ngộ cao, ngộ sâu, cần nghiệm xét.

Có vị tăng hỏi Thiền sư Cư Độn:

- Người xưa được cái gì liền thôi đi.

Sư đáp:

- Như giặc vào nhà trống.

Sở dĩ được chỗ thôi dứt, được an ổn thật sự là do đâu? “Như giặc vào nhà trống” vậy là có được cái gì ? Thấy có được cái này, có được cái nọ, chứa đầy một bụng là nguy. Nếu thấy có được là phải có mất, vì đó là chỗ cho giặc vào lấy của, thì hẳn là chưa “thôi đi” được. Phải tâm trống sạch như giặc vào nhà trống, không có gì để lấy thì nó tự bỏ đi. Cũng vậy, tâm bặt mọi niệm được mất, không chứa giữ một chút gì thì tự nó an, khỏi lo trừ dẹp. Trái lại, cứ lo tìm cầu chứa đựng đầy trong đó mà muốn an thì khó an. Ngươi muốn An phải nghiệm sâu, nghiệm kỹ chỗ này!

* KHI NÓI CÓ CHỨNG ĐẮC

Trong nhà thiền có lúc chư Tổ cũng thường nhắc nhở người tu: Phải thật tu, thật ngộ, thật chứng. Như Thiền sư Phật Giám bảo: “Tham phải thật tham, ngộ phải thật ngộ, hãy tham cứu cùng tột suốt đến đáy của giáo lý.” Vậy là thật có chứng chăng ? Bởi đây là ý các ngài muốn nhắc người học, phải có công phu thực hành chân thật, có chỗ sống vững vàng, tránh rơi vào chỗ nói lý suông, thiền trên môi lưỡi. Tức là, chỉ lấy cái hiểu của chư Tổ làm cái hiểu của mình, chỉ lo lý luận mà không được mà không có thực sống. Để gõ tỉnh cho hạng người này nên các ngài bảo phải thực tu, thực chứng đàng hoàng mới có đạo lực thắng được nghiệp phiền não. Không phải nói thế là bảo chúng ta thấy thật có chỗ chứng, chỗ đắc.

Như Vương Thường Thị đến chỗ Lâm Tế, ông đi đến trước tăng đường xem xong, bèn bảo:

- Tăng cả nhà này có xem kinh chăng?

Lâm tế đáp:

- Chẳng xem kinh.

Ông hỏi:

- Có học thiền chăng?

Lâm tế đáp:

- Chẳng học thiền.

Ông hỏi:

- Kinh chẳng xem, thiền cũng chẳng học, cuối cùng làm cái gì?

Lâm tế đáp:

- Thảy dạy họ làm Phật, làm Tổ.

Người mới nghe qua, thấy có cao mạn hay không? Chỉ dạy làm Phật, làm Tổ thôi là sao? Đây là đánh thức tâm niệm lo đeo đuổi theo bên ngoài, bám vào công phu rỗng suông sanh diệt, phải thực sống trở lại sức sống chân thật. Làm Phật, làm Tổ đâu phải là chuyện nói suông mà được? Người không hiểu, lầm chấp theo chữ nghĩa, cho ta là tu cao làm Phật làm Tổ thôi, trở thành kiêu mạn, tự đắc, đó là bệnh. Cho nên chư Tổ thường nhắc: “Mạt vàng tuy quý, rơi vào tròng mắt cũng thành bệnh.” Mắt vốn là torng sáng, không chấp nhận chứa thêm một chút gì nữa. Bụi rơi vào cũng bệnh mà mạt vàng rơi vào cũng bệnh. Kinh Lăng Nghiêm Phật đã ân cần nhắc rõ: “Nếu khởi cái hiểu Thánh tức rơi vào bọn tà. Chẳng khởi tâm Thánh tức là cảnh giới lành.” (Nhược tác thánh giải tức thọ quần tà. Bất khởi thánh tâm tực thiện cảnh giới.)

Vừa khởi tâm chứng Thánh. Thấy mình là Thánh tức đi lệch ra ngoài rồi, là tạo cơ hội cho bọn ma xen vào, phá hoại huệ mạng của mình. Đó là điều phải luôn luôn nhớ! Do đó, các ngài nói “được” nhưng không cho chúng ta chấp có “được”, nhằm khiến mình quên công phu tạo tác, tự thể nhập tự tánh sẵn có muôn thuở. Bởi vậy, tuy thực chứng thực đắc không nghi ngờ, mà không thể lầm cho là thật có chỗ được, người học phải nhận kỹ!

Hòa thượng Hoáng Bá từng bảo: “Giả sử ông tu hành trải qua ba vô số kiếp, qua các địa vị, cùng người do một niệm chứng được, chỉ là chứng cái SẴN CÓ ” Ngài Hoàng Bá xác định rõ ràng, dù người công phu lâu dài trải qua thời gian cả ba vô số kiếp, cùng người ngay một niệm hiện tiền đây chứng được, cũng chỉ là chứng cái sẵn có nơi mình thôi, kỳ thật không có cái gì thêm bớt sai khác. Bởi bao nhiêu công phu lâu dài kia cũng chỉ là "trở về chỗ sẵn có" này thôi. Nếu khởi một niệm “TA có cái riêng được hơn người” tức liền mê ngay!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33058)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6485)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11193)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30336)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30396)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7936)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12133)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12205)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11551)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12737)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34669)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9807)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52214)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10708)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10474)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10671)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10411)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13028)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16192)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21762)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9571)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7070)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10345)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12681)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12740)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16184)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16476)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13806)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16514)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12062)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13751)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14273)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9161)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11714)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11227)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16258)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14309)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16165)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12668)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12035)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11753)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15626)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11466)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13994)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11982)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12593)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14942)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11934)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13099)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14483)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20640)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13173)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10901)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20643)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14290)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20275)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17576)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13957)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31815)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11957)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant