Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

5. Tắc 10 - Tắc 12

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12529)
5. Tắc 10 - Tắc 12

BÍCH NHAM LỤC
Tác giả: Thiền sư Viên Ngộ - Việt dịch: HT. Thích Thanh Từ
Tu viện Chân Không 1980

TẮC 10

MỤC CHÂU KẺ CƯỚP RỖNG

LỜI DẪN: Thế ấy thế ấy, chẳng thế ấy chẳng thế ấy, nếu luận chiến thì mỗi mỗi ở chỗ chuyển, cho nên nói: Nếu hướng thượng chuyển liền được Thích-ca, Di-lặc, Văn-thù, Phổ Hiền, ngàn Thánh muôn Thánh, các bậc Tông sư khắp thiên hạ thảy đều nuốt hơi ngậm miệng. Nếu hướng hạ chuyển thì chim chóc mối kiến xuẩn động hàm linh mỗi mỗi đều phóng hào quang sáng, mỗi mỗi đều vách đứng vạn nhẫn. Nếu như chẳng thượng chẳng hạ, lại làm sao thương lượng? Có điều vin điều, không điều vin lệ, thử cử xem?

CÔNG ÁN: Mục Châu hỏi vị Tăng: Vừa rời chỗ nào? Tăng liền hét! Mục Châu nói: Lão tăng bị một tiếng hét của ông. Tăng lại hét! Mục Châu nói: Ba hét bốn hét sau rồi làm gì? Tăng lặng câm. Mục Châu liền đánh, nói: Kẻ cướp rỗng này.

GIẢI THÍCH: Phàm là người dựng lập Tông giáo phải có con mắt của bổn phận Tông sư, có bổn phận Tông sư tác dụng. Mục Châu cơ phong dường như điện chớp, thích khám phá các tọa chủ. Bình thường Sư nói ra một lời, nửa câu giống như cả rừng gai góc, để chân tay đến không được. Sư vừa thấy Tăng đến liền nói: Thấy thành công án, tha ông ba mươi gậy. Có khi thấy Tăng, Sư gọi: Thượng tọa! Tăng xoay đầu lại. Sư bảo: Kẻ gánh bản. Sư dạy chúng: Chưa có chỗ vào phải được chỗ vào, đã được chỗ vào không được cô phụ Lão tăng. Mục Châu vì người phần nhiều như thế.

Vị Tăng hỏi đây cũng khéo giũa gọt, song đầu rồng, đuôi rắn. Chính khi ấy, nếu không phải Mục Châu cũng bị y làm một trường bối rối. Như Mục Châu hỏi vừa rời chỗ nào, Tăng liền hét, hãy nói ý chỉ thế nào? Lão già này cũng không rối loạn, chậm rãi nói với y: Lão tăng bị một tiếng hét của ông. Dường như nhận thoại của y được một phần, lại dường như nghiệm y, nép thân qua một bên xem y thế nào. Vị Tăng này lại hét, giống thì giống, phải thì chưa phải. Bị lão già này xỏ lỗ mũi, bèn hỏi ba tiếng hét, bốn tiếng hét sau rồi làm gì. Quả nhiên vị Tăng này câm họng. Mục Châu liền đánh, bảo: Kẻ cướp rỗng này. Thật là nghiệm người đến chỗ chính xác, buông lời liền là tri âm. Tiếc thay vị Tăng này câm họng, nên bị Mục Châu nói kẻ cướp rỗng này. Nếu là quí vị, bị Mục Châu bảo ba tiếng hét bốn tiếng hét sau rồi làm gì, nên đáp thế nào để khỏi bị nói kẻ cướp rỗng này? Trong đây nếu là người biết sống chết, rành tốt xấu, chân đạp đến chỗ đất chân thật, nào quản ba tiếng hét bốn tiếng hét sau rồi làm gì. Bởi vị Tăng này câm họng, nên bị lão ấy cứ theo bản luận tội kết án. Nghe Tuyết Đậu tụng:

TỤNG:

Lưỡng hát dữ tam hát
Tác giả tri cơ biến
Nhược vị kỵ hổ đầu
Nhị câu thành hạt hán
Thùy hạt hán?
Niêm lai thiên hạ dữ nhân khan.

DỊCH:

Hai hét cùng ba hét
Tác giả biết cơ biến
Nếu bảo cỡi đầu cọp
Cả hai thành mù hết
Ai kẻ mù?
Đem ra thiên hạ cho người xem.

GIẢI TỤNG: Tuyết Đậu chẳng ngại có chỗ vì người. Nếu không phải là hàng tác gia thì chỉ hét hồ hét loạn thôi. Vì thế cổ nhân nói: Có khi một tiếng hét không có cái dụng của tiếng hét, có khi một tiếng hét có cái dụng của một tiếng hét, có khi một tiếng hét như sư tử ngồi xổm, có khi một tiếng hét như bảo kiếm Kim Cang Vương. Thiền sư Hưng Hóa nói: Ta thấy các ông ở bên đông lang hét, ở bên tây lang cũng hét, chớ có hét hồ hét loạn, dù cho hét đến Hưng Hóa bay bổng lên cõi trời Tam thập tam, rớt lại xuống đất chết ngất, đợi đến khi tỉnh lại, ta sẽ nói với các ông là chưa phải. Vì sao? Vì Hưng Hóa chưa từng nhằm trong màn trướng tía ném chơn châu cho các ông, các ông chỉ thích hét hồ hét loạn làm gì? Tổ Lâm Tế nói: Ta nghe các ông thảy học tiếng hét của ta, ta hỏi các ông nhà Đông có vị Tăng đến, nhà Tây có vị Tăng đến, cả hai đồng thời hét, vậy tiếng hét nào là khách, tiếng hét nào là chủ? Nếu các ông phân chủ khách chẳng được, về sau không được bắt chước Lão tăng. Vì thế Tuyết Đậu tụng “tác giả biết cơ biến”. Vị Tăng này tuy bị Mục Châu thâu, song y có biết chỗ cơ biến. Hãy nói chỗ nào là chỗ vị Tăng này biết cơ biến? Thiền sư Trí ở Lộc Môn điểm vị Tăng này rằng: người biết pháp sợ. Nham Đầu nói: Nếu luận chiến thì mỗi mỗi đứng tại chỗ chuyển. Hòa thượng Tử Tâm ở Hoàng Long nói: Cùng thì biến, biến thì thông. Cái này là chỗ Tổ sư ngồi cắt đầu lưỡi người trong thiên hạ. Ông nếu biết cơ biến, nhắc đến liền biết chỗ rơi. Có một nhóm người nói: Đợi kia nói ba hét bốn hét làm gì, chỉ cần hét sắp dứt liền hét, hai chục đến ba chục hét, hét đến Di-lặc hạ sanh, gọi đó là cỡi đầu cọp. Nếu thấy biết như thế là chẳng biết Mục Châu. Cần thấy vị Tăng kia, rất xa vậy. Như người cỡi đầu cọp cần phải trong tay có đao, cũng biết chuyển biến mới được. Tuyết Đậu nói nếu thấy biết thế ấy, “cả hai đều mù hết”. Tuyết Đậu giống như cầm cây Ỷ Thiên trường kiếm, oai phuông lẫm lẫm. Nếu hiểu được ý Tuyết Đậu, tự nhiên ngàn chỗ muôn chỗ đồng thời hiểu, liền thấy phần tụng sau của Tuyết Đậu chỉ là chú giải. Lại nói “ai kẻ mù”, thử nói khách mù hay chủ mù? Hay là chủ khách đồng thời mù chăng? “Đem ra thiên hạ cho người xem”, đây là chỗ sống, Tuyết Đậu một lúc tụng xong vậy. Lại nói “đem ra thiên hạ cho người xem”, hãy nói làm sao xem? Mở mắt xem hay nhắm mắt xem? Lại có người khỏi được chăng?

TẮC 11

HOÀNG BÁ BỌN ĂN HÈM

LỜI DẪN: Đại cơ Phật Tổ toàn nắm trong tay, mạng mạch nhân thiên nằm trong tiếng gọi, thảnh thơi một lời một câu kinh động quần chúng, một cơ một cảnh đập xích phá cùm, tiếp cơ hướng thượng nêu việc hướng thượng. Hãy nói người nào từng đến thế ấy, có biết chỗ rơi chăng, thử nêu xem?

CÔNG ÁN: Hoàng Bá dạy chúng: Cả thảy các ngươi đều là bọn ăn hèm, hành cước thế ấy chỗ nào có ngày nay? Lại biết trong nước Đại Đường có Thiền sư chăng? Có vị Tăng ra thưa: Chỉ như các nơi khuông đồ lãnh chúng lại là gì? Hoàng Bá bảo: Chẳng nói không thiền, chỉ là không Sư.

GIẢI THÍCH: Hoàng Bá thân cao bảy thước (2,80m), trên trán có hạt châu tròn, thiên tánh hội thiền. Sư đi dạo Thiên Thai, trên đường gặp một vị Tăng cùng bàn luận vui cười như người quen cũ, nhìn kỹ là người đã chết, có chút ít tướng lạ. Hai người đồng đi, gặp dòng suối nước tràn chảy mạnh, Sư chống gậy lột nón đứng lại, vị Tăng kia thúc Sư đồng qua. Sư bảo: Mời qua trước. Vị Tăng kia liền vén áo bước trên sóng đi qua, như bước trên đất bằng. Qua rồi, vị Tăng gọi: Qua đây! Qua đây! Sư quở: Cái này tự biết, gã tự liễu này! nếu tôi sớm biết làm quái, sẽ chặt bắp đùi huynh. Vị Tăng kia khen: Thật là pháp khí Đại thừa. Nói xong nhìn lại chẳng thấy ông. Sư ban đầu đến Bá Trượng, Bá Trượng hỏi: Vòi vọi rỡ rỡ từ chỗ nào đến? Sư thưa: Vòi vọi rỡ rỡ từ Lãnh Trung đến. Bá Trượng hỏi: Đến vì việc gì? Sư thưa: Chẳng vì việc khác. Bá Trượng thầm nhận đó. Hôm khác, Sư đến từ Bá Trượng, Bá Trượng hỏi: Định đi đâu? Sư thưa: Đến Giang Tây lễ báiđại sư. Bá Trượng bảo: Mã đại sư tịch rồi. Ông hãy nói Hoàng Bá hỏi thế ấy là biết mà hỏi hay không biết mà hỏi? Sư thưa: Con mơ ước đến lễ bái mà phước duyên cạn mỏng không được yết kiến. Chẳng biết bình thường Ngài có lời dạy gì, mong được nghe nhắc lại? Bá Trượng nhắc lại nhân duyên tái tham vấn Mã Tổ: Mã Tổ thấy ta đến liền dựng đứng cây phất tử, ta hỏi: Tức đây dùng lìa đây dùng? Mã Tổ bèn treo cây phất tử ở góc giường thiền. Giây lâu Mã Tổ hỏi ta: Ngươi về sau đập hai miếng da, vì người thế nào? Ta lấy cây phất tử dựng đứng. Mã Tổ hỏi: Tức đây dùng lìa đây dùng? Ta đem cây phất tử máng ở góc giường thiền. Mã Tổ chấn chỉnh oai nghi hét một tiếng, ta khi ấy đến ba ngày lỗ tai còn điếc. Hoàng Bá bất chợt hoảng hốt le lưỡi. Bá Trượng bảo: Ngươi về sau kế thừa Mã Tổ chăng? Sư thưa: Chẳng phải thế, ngày nay nghe thầy nhắc lại, được thấy Mã đại sư đại cơ đại dụng, nếu kế thừađại sư về sau mất hết con cháu của con. Bá Trượng bảo: Đúng thế! Đúng thế! Thấy bằng thầy kém thầy nửa đức, trí vượt hơn thầy mới kham truyền thụ. Chỗ thấy của ngươi hiện nay quả là có tác dụng vượt hơn thầy. Quí vị hãy nói, Hoàng Bá hỏi thế ấy là biết mà cố hỏi hay không biết mà hỏi? Cần phải thân thấy chỗ hành lý trong nhà cha con họ mới được. Một hôm, Hoàng Bá lại hỏi Bá Trượng: Tông thừa về trước làm sao chỉ dạy? Bá Trượng im lặng giây lâu. Hoàng Bá thưa: Không thể khiến người sau đoạn tuyệt. Bá Trượng nói: Toan bảo ngươi là một cá nhân. Bèn đứng dậy đi vào phương trượng.

Hoàng Bá cùng Tướng quốc Bùi Hưu là bạn phương ngoại. Bùi Hưu trấn Uyển Lăng thỉnh Sư đến quận đường, đem quyển sách ông viết trao cho Sư xem. Sư tiếp nhận rồi để dưới tòa, bỏ qua không giở ra xem, im lặng giây lâu hỏi: Hội chăng? Bùi Hưu thưa: Chẳng hội. Hoàng Bá nói: Nếu thế ấy hội được vẫn còn chút ít sơ sài, nếu bày trên giấy mực thì chỗ nào lại có Tông của ta. Bùi Hưu bèn làm bài tụng tán thán:

TỤNG:

Tự tùng Đại sĩ truyền tâm ấn
Ngạch hữu viên châu thất xích thân
Quải tích thập niên thê Thục thủy
Phù bôi kim nhật độ Chương Tân
Bát thiên long tượng tùy cao bộ
Vạn lý hương hoa kết thắng nhân
Nghĩ dục sự Sư vi đệ tử
Bất tri tương pháp phó hà nhân.

DỊCH:

Kể từ Đại sĩ truyền tâm ấn
Chiếc thân bảy thước trán minh châu
Chống gậy mười năm nương đất Thục
Hôm nay cỡi sóng sang Chương Tân
Tám ngàn long tượng theo chân bước
Muôn dặm hương hoa kết thắng nhân
Lòng muốn thờ thầy làm đệ tử
Chẳng biết pháp gì gởi cho người.

Sư cũng không có vẻ vui nói:

Tâm như đại hải vô biên tế
Khẩu thổ hồng liên dưỡng bệnh thân
Tự hữu nhất song vô sự thủ
Bất tằng chi ấp đẳng nhàn nhân.

DỊCH:

Tâm như bể cả không ngằn mé
Miệng nhả sen hồng nuôi bệnh thân
Sẵn có một đôi tay không việc
Chẳng từng kính vái kẻ ưa nhàn.

Sau khi Sư trụ trì cơ phong cao vót, Lâm Tế ở trong hội, Mục Châu làm Thủ tọa. Mục Châu hỏi Lâm Tế: Thượng tọa ở đây đã lâu sao chẳng đến hỏi thoại? Lâm Tế thưa: Bảo tôi hỏi thoại gì mới được? Thủ tọa bảo: Sao không hỏi thế nào là đại ý Phật pháp? Lâm Tế liền đi hỏi, ba phen bị đánh đuổi ra. Lâm Tế đến từ giã Thủ tọa: Nhờ Thủ tọa dạy ba phen đến hỏi đều bị đánh đuổi ra, e nhân duyên không phải ở đây, tạm thời xin xuống núi. Thủ tọa bảo: Ông muốn đi nên đến từ giã Hòa thượng rồi sẽ đi. Thủ tọa đến trước bạch Hoàng Bá: Thượng tọa đến hỏi thoại thật là ít có, sao Hòa thượng không đục đẽo khiến thành cội cây to che mát người sau? Hoàng Bá nói: Ta đã biết! Lâm Tế đến từ giã, Hoàng Bá bảo: Ông không nên đi nơi khác, hãy thẳng đến bến Cao An yết kiến Đại Ngu. Lâm Tế đến Đại Ngu thuật lại lời hỏi trước, chẳng biết con lỗi tại chỗ nào? Đại Ngu nói: Hoàng Bá thật tâm lão bà tha thiết vì ông triệt khốn, lại hỏi có lỗi không lỗi. Lâm Tế bỗng nhiên đại ngộ, nói: Phật pháp Hoàng Bá rất ít. Đại Ngu nắm đứng bảo: Ông vừa rồi nói có lỗi không lỗi, giờ đây nói Phật pháp Hoàng Bá rất ít. Lâm Tế nhằm hông Đại Ngu thoi ba cái. Đại Ngu buông ra bảo: Thầy ông là Hoàng Bá, không can gì việc của ta.

Một hôm Hoàng Bá nói: “Đại sư Pháp Dung ở núi Ngưu Đầu nói ngang nói dọc vẫn chưa biết cây chốt cửa hướng thượng.” Bấy giờ, dưới hội Thạch Đầu, Mã Tổ, Thiền tăng đông vầy nói thiền nói đạo, tại sao Sư lại nói như thế? Sở dĩ dạy chúng: “Cả thảy các ông đều là kẻ ăn hèm, đi hành cước thế ấy chỉ khiến cho người ta cười, chỉ thấy tám trăm, một ngàn người liền ra đi, không thể cam chịu sự ồn náo. Trong đây thảy đều dung dị như các ông thì làm gì lại có việc ngày nay?” Thời Đường ưa mắng người bằng câu “kẻ ăn hèm”. Nhiều người nói Hoàng Bá mắng người ta. Kẻ mắt sáng tự thấy chỗ rơi của Sư. Đại ý thả một lưỡi câu để nhử người hỏi. Trong chúng có Thiền khách không tiếc thân mạng, liền hiểu như thế ra chúng hỏi: Hiện nay các nơi khuông đồ lãnh chúng lại là sao? Cũng nên cho một tát. Lão này quả nhiên bối rối liền ló đuôi, nói: Chẳng nói không thiền chỉ là không Sư. Hãy nói ý tại chỗ nào? Tông chỉ của Sư từ trước có khi bắt, có khi thả, có khi giết, có khi tha, có khi buông, có khi giữ. Dám hỏi quí vị: Thế nào Sư ở trong thiền? Sơn tăng nói thế ấy đã là khắp đầu chìm ngấm rồi. Lỗ mũi quí vị ở chỗ nào? Giây lâu nói: Xỏ qua rồi.

TỤNG:

Lẫm lẫm cô phong bất tự khoa
Đoan cư hoàng hải định Long xà
Đại Trung thiên tử tằng khinh xúc
Tam độ thân tao lộng trảo nha.

DỊCH:

Lẫm lẫm cô phong chẳng tự khoe
Ngồi yên biển cả định Long xà
Đại Trung thiên tử từng bị tát
Ba trận thân đùa nanh vuốt nhe.

GIẢI TỤNG: Bài tụng này của Tuyết Đậu dường như bài chân tán Hoàng Bá. Song chúng ta không hiểu theo chân tán thì dưới câu liền có chỗ xuất thân. Nói rõ ràng rằng “lẫm lẫm cô phong chẳng tự khoe”, Hoàng Bá dạy chúng thế ấy, chẳng phải tranh thắng người thua mình, tự trình tự khoe. Nếu hội được tin tức này, mặc tình bảy dọc tám ngang, có khi đứng một mình trên ngọn cô phong, có khi nằm ngang giữa chốn thành thị, đâu thể riêng giữ một góc. Càng xả càng chẳng hết, càng tìm càng chẳng thấy, càng gánh gồng càng chìm lịm. Người xưa nói: “Không cánh khắp thiên hạ, có danh truyền thế gian.” Tận tình buông hết Phật pháp, đạo lý huyền diệu kỳ đặc, buông sạch không còn chút gì, tự nhiên xúc xứ hiện thành. Tuyết Đậu nói “ngồi yên biển cả định long xà”, là rồng là rắn vào cửa đều nghiệm được, gọi là định long xà nhãn, cầm hổ hủy cơ (con mắt định rồng rắn, máy bắt cọp tê giác). Tuyết Đậu lại nói “định long xà chừ mắt nào chánh, cầm hổ hủy chừ cơ chẳng toàn”. Hai câu “Đại Trung thiên tử từng bị tát, ba trận thân đùa nanh vuốt nhe”, Hoàng Bá đâu phải chỉ hiện nay thủ đoạn ác, mà từ trước đến giờ là thế. Đại Trung thiên tử theo truyện Tục Hàm Thông chép: Vua Đường Hiến Tông có hai người con là Mục Tông và Tuyên Tông. Tuyên Tông tức là Đại Trung, mới mười ba tuổi mà rất thông minh, thích ngồi kiết-già. Khi Mục Tông đang tại vị, nhân bãi triều sớm, Đại Trung đùa, lên long sàng ngồi, làm thế quần thần kính bái. Đại thần xem thấy cho đó là tâm phong, bèn tâu lên Mục Tông. Mục Tông thấy vỗ về khen: Em ta là bậc anh tài của Tông tổ ta. Niên hiệu Trường Khánh thứ tư (824), Mục Tông băng hà. Mục Tông có ba người con là Kỉnh Tông, Văn Tông và Võ Tông. Kỉnh Tông nối vua cha được hai năm, nội thần mưu thay đổi. Văn Tông lên ngôi mười bốn năm, kế Võ Tông lên ngôi. Võ Tông gọi Đại Trung là si nô. Một hôm, Võ Tông hận Đại Trung ngày xưa lên long sàng của cha mình ngồi, bèn lôi ra đánh đến chết đem bỏ trong vườn, dùng nước nhơ rưới lên được tỉnh trở lại. Sau khi tỉnh, Đại Trung lén trốn vào hội của Thiền sư Chí Nhàn ở Hương Nghiêm, cạo tóc làm Sa-di. Chưa thọ giới Cụ túc, theo Chí Nhàn du phương đến Lô Sơn. Nhân Chí Nhàn làm thơ đề Bộc Bố (Nước trên núi chảy xuống như tấm vải treo):

Xuyên vân thấu thạch bất từ lao
Địa viễn phương tri xuất xứ cao.

DỊCH:

Phủng mây soi đá biết nhọc nào
Xa tít mới hay xuất xứ cao.

Chí Nhàn ngâm hai câu này rồi, ngẫm nghĩ mãi cố ý câu cho y thổ lộ xem ngữ mạch thế nào. Đại Trung tiếp:

Khê giản khởi năng lưu đắc trụ
Chung qui đại hải tác ba đào.

DỊCH:

Khe suối tài gì ngăn được đứng
Trọn về bể cả dấy ba đào.

Chí Nhàn biết không phải người tầm thường, chỉ thầm biết thôi, sau đến trong hội Diêm Quan thỉnh Đại Trung làm thư ký, Hoàng Bá làm Thủ tọa. Một hôm, Hoàng Bá đi lễ Phật, Đại Trung thấy hỏi: Chẳng cầu Phật, chẳng cầu Pháp, chẳng cầu Tăng, vậy lễ bái để cầu cái gì? Hoàng Bá đáp: Chẳng cầu Phật, chẳng cầu Pháp, chẳng cầu Tăng, thường lễ như thế. Đại Trung bảo: Dùng lễ làm gì? Hoàng Bá liền tát tai. Đại Trung nói: Quá thô! Hoàng Bá nói: Trong đây còn gì nói thô nói tế. Hoàng Bá lại tát tai. Sau Đại Trung lên ngôi vua, ban Hoàng Bá hiệu “Thô hạnh Sa-môn”. Tướng quốc Bùi Hưu ở triều tâu xin ban hiệu là: Đoạn Tế Thiền sư. Tuyết Đậu biết rõ huyết mạch xuất xứ ấy nên ứng dụng rất khéo. Hiện nay có người đùa nanh vuốt chăng? Liền đánh.

TẮC 12

ĐỘNG SƠN BA CÂN GAI

LỜI DẪN: Đao giết người kiếm tha người là phong qui từ thượng cổ, cũng là chỗ khu yếu của hiện nay. Nếu luận về giết thì không chạm đến mảy lông, nếu luận về tha thì tan thân mất mạng. Vì thế nói: “Con đường hướng thượng ngàn Thánh chẳng truyền, học giả nhọc hình như khỉ bắt bóng.” Hãy nói đã là chẳng truyền, vì sao lại có rất nhiều công án sắn bìm? Người đủ mắt sáng thử nói xem!

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Động Sơn Thủ Sơ: Thế nào là Phật? Động Sơn đáp: Ba cân gai.

GIẢI THÍCH: Công án này nhiều người hiểu lầm, hẳn là khó nhai gặm, không có chỗ cho ông mở miệng. Tại sao? Vì nhạt nhẽo không có mùi vị. Người xưa đã lắm lần đáp câu hỏi Phật, hoặc nói ở trong điện, hoặc nói ba mươi hai tướng, hoặc nói trong rừng dưới núi tre trúc tươi. Động Sơn đáp ba cân gai, quả là cắt đứt đầu lưỡi người xưa. Nhiều người khởi hiểu câu này, khi ấy Động Sơn đang cân gai trong kho, Tăng hỏi nên đáp như thế, hoặc nói Động Sơn hỏi Đông đáp Tây, hoặc nói ông là Phật lại đi hỏi Phật, nên Động Sơn đi quanh đáp cho. Gã chết nói chỉ ba cân gai này là Phật. Thật hoàn toàn không dính dáng. Nếu ông dưới câu của Động Sơn hiểu như thế, tham vấn đến Phật Di-lặc ra đời cũng chưa mộng thấy. Tại sao? Vì ngôn ngữ chỉ là món đồ chở đạo. Sao chẳng biết ý của cổ nhân, chỉ chăm vào trong câu tìm cầu có gì chân thật. Người xưa nói: Đạo vốn không lời, nhân lời hiển đạo, thấy đạo phải quên lời. Nếu đến đây trả lại ta cơ đệ nhất mới được. Chỉ câu “ba cân gai” giống như con đường Trường An giở chân lên để chân xuống đều là phải. Câu nói này so với câu “bánh hồ” của Vân Môn cũng đồng một loại, quả là khó hội. Ngũ Tổ tiên sư tụng:

TỤNG:

Tiện mại đảm bản hán
Thiếp bình ma tam cân
Thiên bách niên thệ hóa
Vô xứ trước hồn thân.

DỊCH:

Kẻ hèn gánh bảng bán
Đo lường ba cân gai
Trăm ngàn năm mắc kẹt
Không chỗ để thân an.

Ông chỉ nhồi đập cho tình trần ý tưởng so lường được mất phải quấy một lúc hết sạch, tự nhiên hội được.

TỤNG:

Kim ô cấp
Ngọc thố tốc
Thiện ứng hà tằng hữu khinh xúc
Triển sự đầu cơ kiến Động Sơn
Ba miết manh qui nhập không cốc.
Hoa thốc thốc, cẩm thốc thốc
Nam địa trúc hề Bắc địa mộc
Nhân tư Trường Khánh Lục đại phu
Giải đạo hiệp tiếu bất hiệp khấp.
Di!

DỊCH:

Mặt trời chóng
Mặt trăng gấp
Khéo ứng đâu từng có khinh xúc
Triển sự đầu cơ thấy Động Sơn
Què trạnh, rùa mù vào hang trống.
Hoa nhóm nhóm, gấm nhóm nhóm
Tre đất Nam chừ cây đất Bắc
Nhân nhớ Trường Khánh Lục đại phu
Khéo nói nên cười chẳng nên khóc.
Chao!

GIẢI TỤNG: Tuyết Đậu thấy được thấu nên ngay nơi đầu nói “mặt trời chóng, mặt trăng gấp”, cùng Động Sơn “ba cân gai” không có hai thứ. Mặt trời mọc, mặt trăng lặn, ngày ngày như thế. Người nhiều tình giải chỉ nói mặt trời là con mắt tả, mặt trăng là con mắt hữu, vừa hỏi đến liền trừng mắt nói ở trong đây. Thật không có gì dính dáng. Nếu hiểu thế ấy thì một tông Tổ Đạt-ma mất sạch. Vì thế nói, thả câu bốn biển chỉ câu rồng to, cách ngoại máy huyền vì tầm tri kỷ. Tuyết Đậu là người ra khỏi ấm giới há khởi loại kiến giải này. Tuyết Đậu nhè nhẹ gõ cửa, chọi cây bày hiện chút ít cho ông thấy, liền hạ chú cước nói “khéo ứng đâu từng có khinh xúc”. Động Sơn chẳng dám khinh thường đáp vị Tăng này, như chuông chịu đóng, như hang nhận vang, lớn nhỏ tùy ứng không dám khinh xúc. Tuyết Đậu đồng thời bày hiện tâm can ngũ tạng trình cho các ông rồi. Tuyết Đậu có bài tụng “Tĩnh Nhi Thiện Ứng” rằng:

TỤNG:

Đổ diện tương trình
Bất tại đa đoan
Long xà dị biện
Nạp tử nan man.
Kim chùy ảnh động
Bảo kiếm quang hàn
Trực hạ lai dã
Cấp trước nhãn khan.

DỊCH: 

Tĩnh Mà Khéo Ứng

Thấy mặt trình nhau
Chẳng tại đa đoan
Rắn rồng dễ biện
Thiền tăng khó lừa.
Chùy vàng bóng động
Kiếm báu quang hàn
Ngay đây thẳng lại
Để mắt chóng xem.

Động Sơn ban đầu đến tham vấn Vân Môn, Vân Môn hỏi: Vừa rời chỗ nào? Động Sơn thưa: Tra Độ. Vân Môn hỏi: Mùa hạ ở đâu? Động Sơn thưa: Chùa Báo Từ ở Hồ Nam. Vân Môn hỏi: Rời chỗ kia lúc nào? Động Sơn thưa: Ngày hai mươi lăm tháng tám. Vân Môn bảo: Tha ông ba gậy, đến nhà tham thiền đi. Chiều lại, Sư vào thất thân cận hỏi: Con lỗi tại chỗ nào? Vân Môn bảo: Cái túi cơm, Giang Tây Hồ Nam là thế ấy. Động Sơn ngay câu này bỗng nhiên đại ngộ thưa: Con ngày khác đến chỗ không có hơi người, dựng một chiếc am, chẳng chứa một hạt gạo, chẳng trồng một cọng rau, thường tiếp đãi thiện tri thức mười phương qua lại, trọn vì họ nhổ đinh tháo chốt, lột chiếc mũ thịt mỡ, cổi chiếc áo hôi thúi, khiến mọi người sạch sẽ thong dong, làm một người vô sự. Vân Môn bảo: Thân bằng cây dừa mà mở được cái miệng to thế. Động Sơn liền từ tạ ra đi. Chỗ đương thời Sư ngộ liền đó chóng thoát, há đồng với tiểu kiến. Sau này Sư xuất thế ứng cơ, câu “ba cân gai”, các nơi chỉ hiểu là lời đáp Phật. Như hỏi: thế nào là Phật, đáp: trong rừng dưới núi tre trúc tươi, hoặc đáp: đồng tử Bính Đinh đến xin lửa. Thế là chỉ quản trên chữ Phật làm đạo lý. Tuyết Đậu nói nếu thế ấy khởi triển sự đầu cơ hiểu, giống như “què trạnh rùa mù vào hang trống”, biết ngày tháng năm nào tìm được đường ra. Câu “hoa nhóm nhóm, gấm nhóm nhóm” đây là vị Tăng hỏi Hòa thượng Trí Môn: Động Sơn nói ba cân gai là ý chỉ thế nào? Trí Môn đáp: Hoa nhóm nhóm, gấm nhóm nhóm, hiểu chăng? Tăng thưa: Chẳng hiểu. Trí Môn nói: Tre đất Nam chừ cây đất Bắc. Vị Tăng trở về thưa lại với Động Sơn. Động Sơn nói: Ta chẳng vì ngươi nói, ta vì đại chúng nói. Liền thượng đường nói: Nói không bày việc, lời chẳng hợp cơ, nương lời là mất, kẹt câu là mê. Tuyết Đậu muốn phá tình kiến người, cố ý dẫn làm nhất quán tụng ra. Người sau lại chuyển sanh tình kiến nói, gai là đồ hiếu phục, trúc là hiếu trượng, nên nói “tre đất Nam chừ cây đất Bắc”. Hoa nhóm nhóm, gấm nhóm nhóm là trước đầu quan tài vẽ hoa cỏ. Lại biết hổ thẹn chăng? Đâu chẳng biết “tre đất Nam chừ cây đất Bắc” cùng “ba cân gai” giống như tiếng kêu Cha với Ba vậy. Người xưa đáp một chuyển ngữ quyết là ý chẳng thế ấy. Như Tuyết Đậu nói “mặt trời chóng mặt trăng gấp” đại để là một loại nói rộng ra, chỉ là vàng thau khó biện, tôm tép khó phân. Tuyết Đậu tâm lão bà tha thiết cốt phá nghi tình cho ông, lại dẫn người chết. “Nhân nhớ Trường Khánh Lục đại phu, khéo nói nên cười chẳng nên khóc.” Nếu luận về tụng của Sư chỉ ba câu đầu đồng thời tụng xong. Ta hỏi ông, trọn vẹn chỉ là ba cân gai, tại sao Tuyết Đậu lại có nhiều sắn bìm? Chẳng qua vì quá từ bi nên như thế. Lục Hoàn đại phu làm Quán sát sử ở Tuyên Châu đến tham vấn Nam Tuyền. Khi Nam Tuyền tịch, nghe sắp đi chôn, ông vào chùa tế xong liền cười ha hả. Viện chủ bảo: Tiên sư cùng Đại phu có nghĩa thầy trò sao chẳng khóc? Đại phu bảo: Nói được thì khóc. Viện chủ lặng câm. Đại phu khóc to nói: Trời xanh! Trời xanh! Tiên sư cách đời xa vậy! Sau này Trường Khánh nghe, bèn nói: Đại phu nên cười chẳng nên khóc. Tuyết Đậu mượn ý này đại để nói: nếu ông khởi loại tình giải này, chính nên cười chớ có khóc. Phải là phải, rốt sau có một chữ thật quái gở, nói “chao”, Tuyết Đậu rửa được sạch chăng?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33285)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6554)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11303)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30416)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30444)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7992)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12213)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12268)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11615)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12846)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34801)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9857)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52278)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10760)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10534)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10726)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10477)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13096)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16302)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21860)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9633)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7135)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10404)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12778)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12803)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16245)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16544)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13876)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16609)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12139)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13843)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14337)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9223)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11766)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11287)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16349)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14364)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16209)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12702)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12095)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11803)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15681)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11525)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14029)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12023)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12673)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15003)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11970)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13140)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14565)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20736)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13245)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10973)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20725)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14377)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20406)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17673)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14036)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31868)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12027)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant