Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

13. Tắc 39 - Tắc 43

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11958)
13. Tắc 39 - Tắc 43

BÍCH NHAM LỤC
Tác giả: Thiền sư Viên Ngộ - Việt dịch: HT. Thích Thanh Từ
Tu viện Chân Không 1980

TẮC 39

VÂN MÔN HOA THƯỢC LAN

LỜI DẪN: Giữa đường thọ dụng dường cọp tựa núi, thế đế lưu bố như vượn tại vườn. Muốn biết nghĩa Phật tánh, phải quán thời tiết nhân duyên, muốn luyện lọc vàng ròng, phải là lò luyện của bậc tác gia. Hãy nói người đại dụng hiện tiền lấy cái gì thí nghiệm?

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Vân Môn: Thế nào là Pháp thân thanh tịnh? Vân Môn đáp: Hoa thược lan. Tăng hỏi: Khi thế ấy đi thì sao? Vân Môn đáp: Sư tử lông vàng.

GIẢI THÍCH: Các ông biết chỗ nói của vị Tăng và chỗ đáp của Vân Môn chăng? Nếu hiểu được thì hai miệng đồng không có một cái lưỡi. Nếu chẳng biết chưa khỏi lầm lẫn. Có vị Tăng hỏi Huyền Sa: Thế nào là Pháp thân thanh tịnh? Huyền Sa đáp: Mủ giọt giọt. Người đủ con mắt Kim cang mời thử biện xem? Vân Môn không đồng người khác, có khi nắm đứng vách cao ngàn trượng, không có chỗ cho ông nghĩ suy, có khi vì ông mở một con đường đồng chết đồng sống. Ba tấc lưỡi của Vân Môn rất sâu kín. Có người nói đó là lối đáp tín thái (tin màu sắc). Nếu hiểu thế ấy, thử nói Vân Môn rơi tại chỗ nào? Cái này là việc ở trong thất, chớ nhằm ra ngoài suy tính. Vì thế, Bá Trượng nói: Sum la vạn tượng, tất cả ngữ ngôn, đều xoay về nơi mình, khiến lăn trùng trục, nhằm chỗ sống linh động. Lại nói: Nếu nghĩ nghị suy tìm, liền rơi vào câu thứ hai. Vĩnh Gia nói: “Pháp thân ngộ rồi không một vật, bản nguyên tự tánh thiên chân Phật.” Vân Môn nghiệm vị Tăng này, vị Tăng này cũng là người ở trong thất của Sư, là người tham cứu đã lâu, biết được việc trong thất Sư, nên tiến ngữ: Khi thế ấy đi thì sao? Vân Môn bảo: Sư tử lông vàng. Hãy nói là chấp nhận y hay chẳng chấp nhận y, là bao y hay biếm y? Nham Đầu nói: Nếu luận chiến thì mỗi người ở chỗ chuyển. Lại nói: Kia tham câu sống chẳng tham câu chết. Câu sống tiến được thì vĩnh kiếp chẳng quên, câu chết tiến được thì tự cứu chưa xong. Lại có vị Tăng hỏi Vân Môn: Phật pháp như trăng trong nước phải chăng? Vân Môn đáp: Sóng trong không đường thông. Tăng thưa: Hòa thượng từ đâu mà được? Vân Môn đáp: Hỏi lại thì đâu đến. Tăng thưa: Chính khi thế ấy đi là sao? Vân Môn đáp: Đường quan san trùng điệp. Phải biết việc này chẳng ở trên ngôn cú, như chọi đá nháng lửa, tợ làn điện chớp, nắm được nắm chẳng được chưa khỏi tan thân mất mạng. Tuyết Đậu là người ở trong đó, liền ngay đầu tụng ra:

TỤNG:

Hoa thược lan
Mạc man han
Tinh tại xứng hề bất tại bàn
Tiện nhậm ma, thái vô đoan
Kim mao sư tử đại gia khan.

DỊCH:

Hoa thược lan
Chớ hoang mang
Khía ở cân chừ chẳng ở bàn
Liền thế ấy, không mối mang
Sư tử lông vàng mọi nhà xem.

GIẢI TỤNG: Tuyết Đậu đồng hội đánh một điệu, rung dây phát ra những bản kỳ diệu, mỗi câu phán xét ra đây. Một bài tụng chẳng khác cách niêm cổ. “Hoa thược lan”, liền nói “chớ hoang mang”. Nhiều người nói: Vân Môn dùng tín thái đáp, thảy đều khởi tình giải hiểu Vân Môn. Vì thế Tuyết Đậu có bổn phận giản trạch, nên nói “chớ hoang mang”. Bởi vì ý của Vân Môn chẳng phải ở chỗ hoa thược lan. Vì thế, Tuyết Đậu nói “khía ở cân chừ chẳng ở bàn”. Một câu này rất mực rõ ràng, trong nước vốn không trăng, trăng ở trời xanh. Như hoa cân ở cân chớ chẳng phải ở bàn. Thử nói cái gì là cân, nếu biện rõ được chẳng cô phụ Tuyết Đậu. Cổ nhân đến trong đây quả thật từ bi phân minh nói với ông, “chẳng ở trong này ở bên kia.” Hãy nói bên kia là chỗ nào? Tại một câu đầu, bài tụng này tụng xong. Phần sau bài tụng là vị Tăng nói “khi thế ấy đi thì sao”. Tuyết Đậu nói: Vị Tăng này “không mối mang”. Hãy nói là đầu sáng hợp hay đầu tối hợp? Hội rồi nói thế ấy, chẳng hội nói thế ấy? “Sư tử lông vàng cả nhà xem”, lại thấy sư tử lông vàng chăng? Mù!

TẮC 40

LỤC HOÀN TRỜI ĐẤT ĐỒNG GỐC

LỜI DẪN: Thôi đi hết đi, cây sắt trổ hoa có chăng? Có chăng? Thông minh cũng thua. Dù cho bảy dọc tám ngang chẳng ra khỏi lỗ mũi y. Hãy nói lầm lẫn ở chỗ nào. Thử cử xem?

CÔNG ÁN: Đại phu Lục Hoàn cùng nói chuyện với Nam Tuyền. Hoàn hỏi: Triệu pháp sư nói “trời đất cùng ta đồng gốc, vạn vật cùng ta một thể”, thật là kỳ quái? Nam Tuyền chỉ hoa trước sân kêu đại phu, nói: Thời nhân thấy gốc hoa này giống hệt như mộng.

GIẢI THÍCH: Lục Hoàn đại phu tham kiến Nam Tuyền đã lâu, bình thường lưu tâm trong lý tánh, tầm khảo Triệu Luận. Một hôm, ngồi bàn luận đem hai câu cho là kỳ đặc, hỏi: Triệu pháp sư nói “trời đất cùng ta đồng gốc, vạn vật cùng ta đồng thể”, thật là kỳ quái? Triệu pháp sư là vị Cao tăng đời Tấn cùng Đạo Sanh, Tăng Duệ, Đạo Dung đồng dưới tay của Cưu-ma-la-thập, gọi là Tứ triết. Pháp sư Tăng Triệu thuở nhỏ thích đọc Lão Trang, sau nhân viết kinh Duy-ma-cật có chỗ ngộ, mới biết Lão Trang vẫn chưa tận thiện. Sư chuyển hợp các kinh làm thành bốn quyển luận (Bát-nhã Vô Tri Luận, Bất Chân Không Luận, Vật Bất Thiên Luận, Niết-bàn Vô Danh Luận). Ý chỉ Lão Trang nói trời đất hình lớn, hình ta cũng vậy, đồng sanh trong hư vô. Trang Sanh đại ý chỉ luận tề vật. Triệu Công đại ý luận tánh đều qui về chính mình. Như trong luận, Sư nói: “Phàm bậc chí chân rỗng rang không hình tượngvạn vật đều do ta tạo, hội vạn vật về chính mình chỉ là bậc Thánh nhân. Tuy có thần có người có hiền có Thánh mỗi loại khác nhau, song đều đồng một tánh một thể”. Cổ nhân nói: “Tột cả càn khôn đại địa chỉ là một cái chính mình, lạnh thì khắp trời khắp đất lạnh, nóng thì khắp trời khắp đất nóng, có thì khắp trời khắp đất có, không thì khắp trời khắp đất không, phải thì khắp trời khắp đất phải, quấy thì khắp trời khắp đất quấy.” Pháp Nhãn nói: “Y y y, ta ta ta, nam bắc đông tây đều tốt tốt, chẳng tốt tốt, chỉ có ta thảy là tốt.” Vì thế nói: “Trên trời dưới trời, chỉ ta là hơn hết.” Thạch Đầu xem Triệu Luận đến chỗ “hội vạn vật về chính mình”, hoát nhiên đại ngộ, sau làm bản Tham Đồng Khế chẳng ngoài ý này. Xem ông hỏi thế ấy, hãy nói đồng gốc gì? Đồng thể nào? Đến trong đây quả là kỳ đặc, há đồng với người thường chẳng biết trời cao đất dày, đâu có việc thế ấy. Đại phu Lục Hoàn hỏi như thế, kỳ thì rất kỳ, chỉ là chẳng thoát ngoài ý kinh. Nếu nói ý kinh là tột, vì sao Thế Tôn lại niêm hoa, Tổ sư lại Tây sang làm gì? Chỗ đáp của Nam Tuyền là dùng lỗ mũi của Thiền tăng, vì kia đưa ra chỗ đau, để phá hang ổ kia. Bèn chỉ cây hoa trước sân, kêu Đại phu nói: Thời nhân thấy một gốc hoa này giống hệt như mộng. Như dẫn người lên đến bờ cao muôn trượng xô một cái khiến họ té chết. Nếu ông xô té trên đất bằng, cho đến đức Phật Di-lặc ra đời cũng chẳng làm cho người chết. Giống hệt như người đang mộng muốn tỉnh mà tỉnh không được, bị người gọi liền tỉnh. Nếu Nam Tuyền con mắt chẳng chánh, quyết định bị ông ấy bôi vẽ rồi. Xem Sư nói thoại thế ấy thật là khó hiểu. Nếu là người con mắt định động linh hoạt nghe được như thượng vị đề-hồ. Nếu là kẻ chết nghe được trở thành thuốc độc. Cổ nhân nói: Nếu ở trên sự thấy thì rơi tại tầm thường, nếu nhằm dưới ý căn suy tính dò tìm thì chẳng được. Nham Đầu nói: Đây là kế sống của người hướng thượng, chỉ hiện bày trước mắt chốc lát như điện chớp. Đại ý Nam Tuyền như thế, có thủ đoạn bắt con tê con cọp, định rồng rắn. Đến trong ấy phải tự hội mới được. Đâu chẳng nghe nói: Một con đường hướng thượng ngàn Thánh chẳng truyền, học giả nhọc hình như khỉ bắt bóng. Xem Tuyết Đậu tụng ra:

TỤNG:

Văn kiến giác tri phi nhất nhất
Sơn hà bất tại cảnh trung quan
Sương thiên nguyệt lạc dạ tương bán
Thùy cộng trừng đàm chiếu ảnh hàn.

DỊCH:

Hiểu biết thấy nghe chẳng phải một
Núi sông nào ở tại gương xem
Trời sương trăng lặn đêm vừa nửa
Ai với đầm trong soi bóng kèm.

GIẢI TỤNG: Nam Tuyền nói mớ ít, Tuyết Đậu nói mớ nhiều. Tuy nhiên tạo mộng, lại tạo được cái mộng đẹp. Phần trước nói một thể, trong đây nói chẳng đồng. “Hiểu biết thấy nghe chẳng phải một, núi sông nào ở tại gương xem”, nếu nói ở trong gương xem về sau mới hiểu rõ thì chẳng rời cái gương. Núi sông đất liền cỏ cây rừng rậm chớ đem gương soi, nếu đem gương soi liền thành hai đoạn. Chỉ nên núi là núi, nước là nước, mỗi pháp trụ bản vị của nó, tướng thế gian thường trụ. Núi sông chẳng ở tại gương xem, hãy nói ở chỗ nào xem, lại hội chăng? Đến trong đây hướng về “trời sương trăng lặn đêm vừa nửa”, bên này vì ông làm rõ rồi, bên kia ông tự độ lấy. Lại biết Tuyết Đậu đem việc bổn phận vì người chăng? “Ai với đầm trong soi bóng kèm”, là tự soi hay cùng người soi? Phải là tuyệt cơ tuyệt giải mới đến cảnh giới này. Hiện nay chẳng cần đầm trong, cũng chẳng đợi trời sương trăng lặn, chính nay làm gì?

TẮC 41

TRIỆU CHÂU NGƯỜI ĐẠI TỬ

LỜI DẪN: Chỗ phải quấy kết chặt, Thánh cũng không thể biết. Khi nghịch thuận dọc ngang, Phật cũng không thể biện. Là kẻ sĩ tuyệt thế siêu luân hiện khả năng của bậc đại sĩ siêu quần nhằm trên tảng băng đi, chạy trên kiếm bén, liền đó như đầu sừng kỳ lân, giống hoa sen trong lò lửa. Cái thấy siêu phương mới biết đồng đạo. Ai là người tay khéo, thử cử xem?

CÔNG ÁN: Triệu Châu hỏi Đầu Tử: Người đại tử khi sống lại thế nào? Đầu Tử đáp: Chẳng cho đi đêm, đợi sáng sẽ đến.

GIẢI THÍCH: Triệu Châu hỏi Đầu Tử “người đại tử khi sống lại thế nào”, Đầu Tử đáp “chẳng cho đi đêm đợi sáng sẽ đến”, hãy nói là thời tiết gì? Ống sáo không lỗ nắm đến liền vỗ nhịp hát. Đây gọi là hỏi nghiệm chủ, cũng gọi là hỏi tâm hạnh. Đầu Tử, Triệu Châu các nơi đều ngợi khen, được cái biện luận siêu quần. Hai vị tuy kế thừa khác nhau, xem cơ phong giống nhau một loại. Một hôm, Đầu TửTriệu Châu thiết tiệc trà đãi nhau, tự tay đưa bánh cho Triệu Châu, Triệu Châu ngó lơ. Đầu Tử sai cư sĩ đưa bánh cho Triệu Châu, Triệu Châu lễ cư sĩ ba lạy. Hãy nói ý Triệu Châu thế nào? Quả là Triệu Châu nhằm trên căn bản nêu việc bổn phận vì người. Có vị Tăng hỏi: Thế nào là đạo? Đầu Tử đáp: Đạo. Hỏi: Thế nào là Phật? Đáp: Phật. Lại hỏi: Khi khóa vàng chưa mở thì thế nào? Đáp: Mở. Hỏi: Khi gà vàng chưa gáy thì thế nào? Đáp: Không có âm hưởng này. Hỏi: Gáy xong thì sao? Đáp: Mỗi tự biết thời. Bình sanh Đầu Tử hỏi đáp như thế. Xem Triệu Châu hỏi: Người đại tử khi sống lại thì thế nào? Liền đáp: Chẳng cho đi đêm, đợi sáng sẽ đến. Hẳn như chọi đá nháng lửa, tợ làn điện chớp, phải là người hướng thượng như ông ta mới được. Người đại tử trọn không có Phật pháp đạo lý huyền diệu được mất phải quấy dài ngắn. Đến trong này chỉ thế ấy thôi đi. Cổ nhân gọi đó là trên đất bằng người chết vô số, qua được rừng gai góc là người tay khéo, cũng phải qua lọt bên kia mới được. Tuy nhiên như thế, hiện nay người đến loại điền địa này, sớm đã khó được. Hoặc có nương tựa, có giải hội thì không giao thiệp. Hòa thượng Triết gọi đó là thấy chẳng tịnh khiết. Ngũ Tổ tiên sư bảo đó là mạng căn chẳng đoạn, phải một phen đại tử sống lại mới được. Hòa thượng Vĩnh Quang ở Chiết Trung nói: Ngôn phong nếu sai thì cổng làng quê cách xa muôn dặm, phải là bờ cao vót buông tay, tự nhận thừa đương, sau khi chết sống lại dối anh chẳng được. Ý chỉ phi thường, người nào che dấu được ư? Ý Triệu Châu hỏi như thế, Đầu Tử là hàng tác gia cũng không cô phụ câu hỏi kia. Chỉ là tuyệt tình bặt dấu, quả thật khó hiểu, chỉ hiện bày trước mắt đôi chút. Vì thế cổ nhân nói: Muốn được thân thiết chớ đem hỏi đến hỏi, hỏi tại chỗ đáp, đáp tại chỗ hỏi. Nếu chẳng phải Đầu Tử, bị Triệu Châu một câu hỏi cũng khó đáp được. Chỉ vì kia là kẻ tác gia, nhắc đến liền biết chỗ rơi:

TỤNG:

Hoạt trung hữu nhãn hoàn đồng tử
Dược kỵ hà tu giám tác gia
Cổ Phật thượng ngôn tằng vị đáo
Bất tri thùy giải tán trần sa.

DỊCH:

Trong sống có mắt lại đồng chết
Thuốc kỵ đâu cần chiếu tác gia
Cổ Phật còn rằng từng chẳng đến
Chẳng hay ai biết ném trần sa.

GIẢI TỤNG: “Trong sống có mắt lại đồng chết”, Tuyết Đậu là người tri hữu nên mới dám tụng. Cổ nhân nói: Kia tham câu sống chẳng tham câu chết. Tuyết Đậu nói trong sống có mắt lại giống như người chết. Đâu chưa từng chết? Trong chết đủ mắt như đồng người sống. Cổ nhân nói: Giết hết người chết mới thấy người sống, làm sống hết người chết mới thấy người chết. Triệu Châu là người sống tạo câu hỏi chết để nghiệm Đầu Tử, như vật kỵ của tánh dược đem thí nghiệm vậy. Vì thế Tuyết Đậu tụng “thuốc kỵ đâu cần chiếu tác gia”. Câu tụng này là chỗ hỏi của Triệu Châu. Phần sau tụng về Đầu Tử, “cổ Phật còn rằng từng chẳng đến”, chỉ chỗ người đại tử sống lại. Cổ Phật cũng chẳng từng đến, các vị Hòa thượng già ở mọi nơi cũng chẳng từng đến. Dù cho ông già Thích-ca hay vị Hồ tăng mắt biếc (Đạt-ma) cũng phải tái tham mới được. Vì thế nói, chỉ cho lão Hồ biết, chẳng cho lão Hồ hiểu. Tuyết Đậu tụng “chẳng hay ai biết ném trần sa”. Có vị Tăng hỏi Trường Khánh: Thế nào là con mắt thiện tri thức? Trường Khánh đáp: Có nguyện chẳng ném cát. Bảo Phước nói: Chẳng nên lại ném. Các vị Hòa thượng già ở mọi nơi ngồi trên chiếc giường gỗ dùng gậy dùng hét, dựng phất gõ giường, hiện thần thông, làm chủ tế, trọn là ném cát. Hãy nói làm sao khỏi được?

TẮC 42

BÀNG CƯ SĨ TUYẾT ĐẸP MẢNH MẢNH

LỜI DẪN: Riêng nêu biệt cột, kẹt nước mắc lầy, nhịp hát đồng thời, núi bạc vách sắt. Nghĩ nghị thì trước đầu lâu thấy quỉ, suy tư thì ngồi dưới hắc sơn. Mặt nhật lên soi sáng khắp trời, gió mát thổi vì vèo đầy đất. Hãy nói cổ nhân có chỗ lầm lẫn, thử cử xem?

CÔNG ÁN: Cư sĩ Bàng Uẩn từ giã Dược Sơn, Dược Sơn sai mười vị Thiền khách tiễn nhau đến cổng ngoài. Cư sĩ chỉ tuyết trong không nói: Tuyết đẹp mảnh mảnh chẳng rơi chỗ khác. Thiền khách Toàn hỏi: Rơi tại chỗ nào? Cư sĩ đánh một tát. Toàn bảo: Cư sĩ không được thô xuất. Cư sĩ nói: Ông thế ấy mà xưng là Thiền khách, Diêm vương chưa tha ông đâu. Toàn hỏi: Cư sĩ thì sao? Cư sĩ đánh một tát, nói: Mắt thấy như mù, miệng nói như câm. (Tuyết Đậu riêng nói: Chỗ mới hỏi, chỉ nắm một hòn tuyết, liền đánh.)

GIẢI THÍCH: Cư sĩ họ Bàng tham vấn hai nơi Mã Tổ, Thạch Đầu đều có làm tụng. Ban đầu yết kiến Thạch Đầu hỏi: Chẳng cùng muôn pháp làm bạn là người gì? Chưa dứt lời bị Thạch Đầu bụm miệng, liền có tỉnh, làm tụng: “Việc hằng ngày không khác, chỉ tôi tự vui hay, vật vật không bỏ lấy, chỗ chỗ không trái bày, đỏ tía gì làm hiệu, núi xanh tuyệt điểm ai, thần thông cùng diệu dụng, gánh nước bửa củi tài.” Sau ông đến tham vấn Mã Tổ hỏi: Chẳng cùng muôn pháp làm bạn là người gì? Mã Tổ đáp: Đợi ông dùng miệng hút cạn nước Tây Giang, liền vì ông nói. Cư sĩ bỗng nhiên đại ngộ, làm tụng: “Mười phương đồng tụ hội, mỗi mỗi học vô vi, đây là trường thi Phật, tâm Không được đậu về.” Vì ông là hàng tác gia, sau này các nơi đều trọng vọng, đến đâu cũng được khen ngợi. Ông qua lại Dược Sơn nhiều lần và ở lâu, từ giã ra về, Dược Sơn rất trọng nên sai mười Thiền khách đi tiễn. Khi ấy gặp tuyết rơi, cư sĩ chỉ tuyết nói: Tuyết đẹp mảnh mảnh chẳng rơi chỗ khác. Thiền khách Toàn hỏi: Rơi tại chỗ nào? Cư sĩ liền tát. Thiền khách Toàn đã không thể hành lệnh, cư sĩ hành phân nửa. Lệnh tuy hành, Thiền khách Toàn đối đáp thế ấy chẳng phải không biết chỗ rơi của ông, chỉ vì mỗi người có cơ phong cuộn tung chẳng đồng. Song vẫn có chỗ chẳng đến kịp cư sĩ, vì thế rơi dưới giá của ông, khó thoát khỏi cái lồng của ông. Cư sĩ đánh rồi lại vì nói đạo lý: Mắt thấy như mù, miệng nói như câm. Tuyết Đậu riêng nói: Chỗ mới hỏi, chỉ nắm một hòn tuyết, liền đánh. Tuyết Đậu thế ấy cốt chẳng cô phụ lời hỏi của Toàn, chỉ vì căn cơ chậm lụt. Tạng chủ Khánh nói: Cơ phong của cư sĩ như điện chớp, đợi các ông nắm hòn tuyết, đến bao giờ? Hô lên liền đáp, hô lên liền đánh, mới là dứt bặt. Tuyết Đậu tự tụng chỗ ông đánh rằng:

TỤNG:

Tuyết đoàn đả, tuyết đoàn đả
Bàng lão cơ quan một khả bả
Thiên thượng nhân gian bất tự tri
Nhãn lý nhĩ lý tuyệt tiêu sái.
Tiêu sái tuyệt
Bích nhãn Hồ Tăng nan biện biệt.

DỊCH:

Hòn tuyết đánh, hòn tuyết đánh
Cơ quan lão Bàng khôn nắm được
Trên trời nhân gian chẳng tự hay
Trong mắt trong tai lắm thích thú.
Thích thú lắm
Hồ Tăng mắt xanh cũng khó biện.

GIẢI TỤNG: “Hòn tuyết đánh, hòn tuyết đánh, cơ quan lão Bàng khôn nắm được”, Tuyết Đậu cốt đi trên đầu cư sĩ. Cổ nhân lấy tuyết để rõ việc bên nhất sắc. Ý Tuyết Đậu nói, khi ấy nếu nắm hòn tuyết liền đánh thì cư sĩ dù có cơ quan thế nào cũng khó xoay trở kịp. Tuyết Đậu tự khoe chỗ đánh của mình, đâu chẳng biết có chỗ bị thua. “Trên trời nhân gian chẳng tự hay, trong mắt trong tai lắm thích thú”, trong mắt cũng là tuyết, trong tai cũng là tuyết. Chính ở bên nhất sắc cũng gọi là cảnh giới Phổ Hiền, việc bên nhất sắc cũng gọi là nhồi thành một khối. Vân Môn nói: “Dù được cả càn khôn đại địa không một mảy may lỗi lầm vẫn là chuyển cú, chẳng thấy nhất sắc mới là bán đề, nếu cần toàn đề phải biết có một con đường hướng thượng mới được.” Đến trong đây phải là đại dụng hiện tiền, kim châm chẳng vào, chẳng cho người khác xử phân. Vì thế nói kia tham câu sống chẳng tham câu chết. Cổ nhân nói: Một câu hợp đầu ngữ, muôn kiếp cọc cột lừa, có dùng vào chỗ nào. Đến đây Tuyết Đậu tụng xong, lại chuyển cơ nói “thích thú lắm”, dù cho “Hồ Tăng mắt xanh cũng khó biện”. Hồ Tăng mắt xanh (Tổ Đạt-ma) còn khó biện biệt, lại bảo Sơn tăng nói cái gì?

TẮC 43

ĐỘNG SƠN KHÔNG LẠNH NÓNG

LỜI DẪN: Câu định càn khôn muôn đời cùng tôn trọng, cơ bắt hổ hủy(1), ngàn Thánh khó biện. Liền đó lại không mảy che ngăn, toàn cơ tùy chỗ đồng bày. Cần rõ kiềm chùy hướng thượng, phải là lò rèn của bậc tác gia. Hãy nói từ trước đến nay lại có gia phong thế ấy hay không, thử cử xem?

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Động Sơn: Khi lạnh nóng đến làm sao né tránh? Động Sơn đáp: Sao chẳng nhằm chỗ không lạnh nóng đi? Tăng hỏi: Thế nào là chỗ không lạnh nóng? Động Sơn đáp: Khi lạnh lạnh chết Xà-lê, khi nóng nóng chết Xà-lê.

GIẢI THÍCH: Hòa thượng Tân ở Hoàng Long niêm: Động Sơn lấy tay áo làm cổ, dưới nách khoét bâu, thế mà vị Tăng này không cam, như nay có người ra hỏi Hoàng Long, hãy nói làm sao đuổi dẹp? Sư im lặng giây lâu, tiếp: “An thiền đâu hẳn nhờ sông núi, diệt sạch tâm sanh lửa tự lành.” Các ngươi hãy nói lồng bẫy của Động Sơn rơi vào chỗ nào? Nếu biện được rành rõ mới biết Động Sơn ngũ vị, hồi hỗ, chánh thiên, tiếp người thật là kỳ đặc. Đến được cảnh giới hướng thượng này mới được như thế, chẳng cần an bài tự nhiên khéo hợp. Vì thế nói:

Chánh Trung Thiên - Canh ba đầu hôm trước trăng sáng, chớ lạ gặp nhau chẳng biết nhau, thầm thầm vẫn ôm hiềm ngày trước.

Thiên Trung Chánh - Mắt sáng lão bà gặp cổ kính, rõ ràng đối mặt lại không chân, thôi chớ quên đầu nhận lấy bóng.

Chánh Trung Lai - Trong không có lộ thoát trần ai, chỉ hay chẳng chạm húy hiện tại, cũng hơn tiền triều cắt lưỡi tài.

Thiên Trung Chí - Hai mũi giao phong chẳng cần tránh, tay khéo lại đồng sen trong lò, quả nhiên tự có xung thiên khí.

Kiêm Trung Đáo - Chẳng rơi có không ai dám hòa, mỗi người trọn muốn ra dòng thường, rốt cuộc lui về ngồi trong tro.

Viễn Lục công ở Phù Sơn lấy công án này làm mẫu cho Ngũ vị. Nếu hiểu một tắc thì các tắc tự nhiên dễ hiểu. Nham Đầu nói: Giống như trái bầu để trên mặt nước, động đến liền xoay vẫn chẳng mất mảy tơ khí lực. Có vị Tăng hỏi Động Sơn: Khi Văn-thù, Phổ Hiền đến tham vấn thì thế nào? Động Sơn đáp: Đuổi vào trong bầy trâu đi. Tăng nói: Hòa thượng vào địa ngục nhanh như tên. Động Sơn nói: Toàn nhờ tha lực. Động Sơn bảo, sao chẳng nhằm chỗ không lạnh nóng đi, đây là Thiên Trung Chánh. Tăng hỏi thế nào là chỗ không lạnh nóng. Động Sơn nói khi lạnh lạnh chết Xà-lê, khi nóng nóng chết Xà-lê, đây là Chánh Trung Thiên. Tuy Chánh lại Thiên, tuy Thiên lại Viên. Trong tập lục của tông Tào Động chép đầy đủ kỹ lưỡng. Nếu là dưới tông Lâm Tế thì không có nhiều việc. Loại công án này thẳng đó liền hội. Có người nói “rất tốt không lạnh nóng”, có đúng sự thật chút nào? Cổ nhân nói: Nếu nhằm trên kiếm bén chạy thì nhanh, nếu nhằm trên tình thức thì chậm. Có vị Tăng hỏi Thúy Vi: Thế nào là ý Tổ sư Tây sang? Thúy Vi bảo: Đợi không có người sẽ nói với ông. Sư đi vào trong vườn. Tăng thưa: Chỗ này không người, thỉnh Hòa thượng nói. Thúy Vi chỉ bụi tre nói: Cây tre này được dài thế ấy, cây tre kia được ngắn thế ấy. Vị Tăng bỗng nhiên đại ngộ. Tào Sơn hỏi Tăng: Nóng thế ấy đến chỗ nào ẩn trốn? Tăng thưa: Ẩn trốn trong chảo dầu lò lửa. Tào Sơn hỏi: Chảo dầu lò lửa làm sao ẩn trốn? Tăng thưa: Các khổ không thể đến. Xem người trong nhà kia tự nhiên hiểu những lời nói trong nhà kia. Tuyết Đậu dùng việc trong nhà kia tụng ra:

TỤNG:

Thùy thủ hoàn đồng vạn nhẫn nhai
Chánh thiên hà tất tại an bài
Lưu-ly cổ điện chiếu minh nguyệt
Nhẫn tuấn Hàn lô không thượng giai.

DỊCH:

Tay duỗi lại đồng muôn trượng bờ
Chánh thiên nào hẳn tại an bài
Điện cổ lưu-ly trăng sáng chiếu
Đáng cười Hàn lô luống đến thềm.

GIẢI TỤNG: Tông Tào Độngxuất thế (giáo hóa) chẳng xuất thế (chẳng giáo hóa), có tay duỗi, chẳng tay duỗi. Nếu chẳng xuất thế thì mắt xem mây xanh. Nếu xuất thế thì đầu tro mặt đất. Mắt xem mây xanh tức là đỉnh muôn trượng. Đầu tro mặt đất tức là việc bên tay duỗi. Có khi đầu tro mặt đất tức ở đỉnh muôn trượng. Có khi đỉnh muôn trượng tức là đầu tro mặt đất. Kỳ thật duỗi tay vào chợ cùng đứng riêng trên ngọn Cô phong một loại. Về nguồn ngộ tánh cùng sai biệt trí không khác. Tối kỵ chia hai đoạn để hiểu. Vì thế nói “tay duỗi lại đồng muôn trượng bờ”, hẳn là không có chỗ cho ông gá nghĩ. “Chánh thiên nào hẳn tại an bài”, nếu đến khi dùng tự nhiên như thế, chẳng tại an bài. Câu tụng này là chỗ đáp của Động Sơn. Phần sau nói “điện cổ lưu-ly trăng sáng chiếu, cam chịu Hàn lô luống đến thềm”, đây là tụng vị Tăng đuổi theo lời nói. Tông Tào Động có mười tám loại: gái đá, ngựa gỗ, giỏ không đáy, minh châu ban đêm, rắn chết… Đại cương chỉ rõ chánh vị như trăng chiếu điện cổ lưu-ly hình như có bóng tròn. Động Sơn đáp sao chẳng đến chỗ không lạnh nóng đi, vị Tăng kia giống như con Hàn lô đuổi bóng, chạy gấp đến thềm chụp bóng trăng - Tăng lại hỏi thế nào là chỗ không lạnh nóng, Động Sơn đáp khi lạnh lạnh chết Xà-lê, khi nóng nóng chết Xà-lê, như Hàn lô đuổi bóng đến trên thềm lại không thấy bóng mặt trăng. Hàn lô là xuất phát từ Chiến Quốc Sách, trong ấy nói: “Con lô của họ Hàn là con chó giỏi. Con thỏ trong núi là con thỏ tinh lanh. Phải là con chó kia mới hay đuổi được con thỏ này.” Tuyết Đậu dẫn làm thí dụ cho vị Tăng này. Các ông lại biết chỗ Động Sơn vì người chăng? Sư lặng thinh giây lâu, nói: Tìm con thỏ nào.


(1) Hủy: con tê giác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11540)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11865)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11036)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12460)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10671)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11625)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10107)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12272)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15252)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11135)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14216)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12004)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15192)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11887)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12334)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11099)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12004)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10513)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12469)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13047)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14694)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12563)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16423)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19481)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13027)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12571)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12176)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11730)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10809)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13412)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11878)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11749)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11527)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12667)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14395)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12522)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15549)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13502)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12786)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9767)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17888)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11057)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8996)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12095)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12948)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10219)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12093)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15191)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16515)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12124)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11381)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14153)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19535)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14064)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24420)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10595)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant