Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

22. Tắc 82 - Tắc 85

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12534)
22. Tắc 82 - Tắc 85

BÍCH NHAM LỤC
Tác giả: Thiền sư Viên Ngộ - Việt dịch: HT. Thích Thanh Từ
Tu viện Chân Không 1980

TẮC 82

ĐẠI LONG PHÁP THÂN KIÊN CỐ

LỜI DẪN: Sợi tơ đầu sào đủ mắt mới thấy, cái cơ cách ngoại hàng tác gia mới biện. Hãy nói thế nào là sợi tơ đầu sào, cái cơ cách ngoại, thử cử xem?

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Đại Long: Sắc thân bại hoại, thế nào là Pháp thân kiên cố? Đại Long đáp: Hoa núi nở dường gấm, nước khe trong tợ chàm.

GIẢI THÍCH: Việc này nếu nhằm trên ngôn ngữ mà tìm, giống như đưa gậy đập mặt trăng, chẳng dính dáng chút nào. Cổ nhân phân minh, nói: Muốn được thân thiết chớ đem hỏi đến hỏi. Vì sao? Hỏi tại chỗ đáp, đáp tại chỗ hỏi. Vị Tăng này gánh một gánh lỗ mãng, đổi một gánh hồ đồ, đặt câu hỏi hư dở chẳng ít. Nếu chẳng phải là Đại Long đâu được che trời che đất. Kia hỏi thế ấy, Đại Long đáp thế ấy, một hợp tướng, lại chẳng dời đổi một mảy tơ. Giống như thấy thỏ thả chim ưng, xem lỗ đặt chốt. Ba thừa mười hai phần giáo lại có thời tiết này chăng? Quả thật kỳ đặc, chỉ là ngôn ngữ vô vị bít lấp miệng người. Thế nên nói: “Một mảnh mây trắng miệng hang khuất, chim về quên tổ biết là bao.” Có người nói chỉ là tùy tiện đáp suông ấy thôi. Nếu hiểu thế đó trọn là kẻ diệt dòng họ Thích. Đâu chẳng biết cổ nhân một cơ một cảnh phá gông đập xiềng, một câu một lời ôm vàng chứa ngọc. Nếu là mắt não Thiền tăng có khi nắm đứng, có khi buông đi, chiếu dụng đồng thời, nhân cảnh đều đoạt, song phóng song thâu, gặp thời thông biến. Nếu không đại dụng đại cơ, đâu hiểu phủ trời che đất như thế. Giống như gương sáng trên đài Hồ đến hiện Hồ, Hán đến hiện Hán. Công án này cùng “hoa thược lan” một loại, song ý lại chẳng đồng. Chỗ hỏi của vị Tăng chẳng rõ, chỗ đáp của Đại Long rất hay. Tăng hỏi Vân Môn: Khi lá rụng cành khô thì thế nào? Vân Môn đáp: Thân bày gió thu. Đây gọi là hai mũi tên chống nhau. Vị Tăng hỏi Đại Long: Sắc thân bại hoại, thế nào là Pháp thân kiên cố? Đại Long đáp: Hoa núi nở dường gấm, nước khe trong tợ chàm. Dường thể anh đến Tây Tần, tôi ở Đông Lỗ. Kia đã đi thế ấy, tôi chẳng đi thế ấy, cùng với Vân Môn một khối trái nhau. Gã kia đi thế ấy là dễ thấy, gã này chẳng đi thế ấy lại khó thấy. Đại Long quả thật ba tấc rất kín. Tuyết Đậu tụng ra:

TỤNG:

Vấn tằng bất tri
Đáp hoàn bất hội
Nguyệt lãnh phong cao
Cổ nham hàn cối
Kham tiếu lộ phùng đạt đạo nhân
Bất tương ngữ mặc đối
Thủ bả bạch ngọc tiên
Ly châu tận kích toái
Bất kích toái
Tăng hà lỗi
Quốc hữu hiến chương
Tam thiên điều tội.

DỊCH:

Hỏi từng chẳng biết
Đáp lại chẳng thông
Gió cao trăng lạnh
Cây hàn núi xưa
Cười ngất đường gặp đạt đạo nhân
Chẳng đem nói nín đáp
Tay cầm roi bạch ngọc
Đập tan nát ly châu
Chẳng đập nát
Thêm tỳ vết
Nước có hiến chương
Ba ngàn điều tội.

GIẢI TỤNG: Tuyết Đậu tụng rất có công phu, ở trước lời tụng Vân Môn nói: “Hỏi đã có tông, đáp cũng vẫn đồng.” Ở đây lại chẳng thế, nói: “Hỏi từng chẳng biết, đáp lại chẳng thông.” Chỗ đáp của Đại Long đứng bên nhìn hẳn là kỳ đặc. Phân minh thì ai hỏi thế ấy, trước khi chưa hỏi sớm đã hỏng rồi. Chỗ đáp của Sư rất mực vừa vặn hợp cơ nghi, nói “hoa núi nở dường gấm, nước khe trong tợ chàm”. Hiện nay mọi người các ông làm sao hiểu ý Đại Long? Lời đáp bàng quan thấy thật kỳ đặc. Vì thế, Tuyết Đậu tụng ra khiến người biết “gió cao trăng lạnh”, lại đụng nhằm “cây hàn núi xưa”. Hãy nói ý đó làm sao hiểu? Sở dĩ vừa rồi nói: “Chiếc sáo không lỗ, đánh nhằm phách nỉ.” Chỉ bốn câu này tụng xong vậy. Tuyết Đậu lại sợ người khởi đạo lý, lại nói: “Cười ngất đường gặp đạt đạo nhân, chẳng đem nói nín đáp.” Việc này chẳng phải thấy nghe hiểu biết, cũng chẳng suy nghĩ phân biệt. Vì thế nói: “Rỡ rỡ không gồm kẹt, dụng riêng nào nương nhờ, trên đường gặp đạt đạo, chớ đem nói nín đáp.” Đây là bài tụng của Hương Nghiêm, Tuyết Đậu dẫn dùng. Tăng hỏi Triệu Châu: Chẳng đem nói nín đáp, chưa biết đem cái gì đáp? Châu đáp: Trình đồ đựng sơn. Cái này đồng với câu vừa rồi nói, chẳng rơi vào tình trần ý tưởng của ông. Giống như cái gì? Giống “tay cầm roi bạch ngọc, đập tan nát ly châu”. Thế nên, Tổ lệnh đương hành mười phương ngồi đoạn. Đây là việc trên kiếm bén, phải có tác lược thế ấy. Nếu chẳng thế ấy, đều cô phụ chư Thánh từ trước. Đến trong đây cần không có chút xíu việc, tự có chỗ tốt, tức là chỗ hành lý của người hướng thượng. Đã chẳng đập nát ắt sanh tỳ vết, liền thấy ló đuôi. Cứu kính phải làm sao được? “Nước có hiến chương, ba ngàn điều tội.” Ngũ hình thuộc ba ngàn, lớn nhất là bất hiếu. Hiến là pháp, chương là điều, ba ngàn điều tội một lúc phạm hết vậy. Cớ sao như thế? Chỉ vì chẳng lấy việc bổn phận tiếp người. Nếu là Đại Long hẳn không thế ấy.

TẮC 83

VÂN MÔN CỔ PHẬT CỘT CÁI

CÔNG ÁN: Vân Môn dạy chúng: Cổ Phật cùng cột cái tương giao là cơ thứ mấy? Tự đáp: Núi Nam khởi mây, núi Bắc rơi mưa.

GIẢI THÍCH: Đại sư Vân Môn xuất phát hơn tám mươi vị thiện tri thức. Sư tịch bảy mươi năm sau, khai tháp thấy thân nghiễm nhiên như xưa. Chỗ thấy của Sư minh bạch cơ cảnh chớp nhoáng. Đại phàm buông lời, nói riêng, thay nói, hẳn là cao vót. Công án này như chọi đá nháng lửa, tợ làn điện chớp, quả là thần ra quỉ vào. Tạng chủ Khánh nói: Một đại tạng giáo lại có loại thuyết thoại này chăng? Hiện nay người ta phần nhiều nhằm trên tình giải làm kế sống, nói: Phật là bậc Đạo sư của Tam giới, là Từ Phụ của bốn loài, đã là cổ Phật vì sao lại cùng cột cái tương giao? Nếu hiểu thế ấy, rốt cuộc dò tìm chẳng được. Có người bảo trong cái không nói ra. Đâu chẳng biết bậc Tông sư thuyết thoại tuyệt ý thức, tuyệt tình lượng, tuyệt sanh tử, tuyệt pháp trần, vào chánh vị lại chẳng còn một pháp. Ông vừa khởi đạo lý so tính, liền bị trói tay trói chân. Hãy nói cổ nhân kia ý thế nào? Chỉ khiến tâm cảnh nhất như, tốt xấu phải quấy lay động kia chẳng được, nói có cũng được, không cũng được, có cơ cũng được, không cơ cũng được, đến trong đây nhịp nhịp đều là lệnh. Ngũ Tổ tiên sư nói: Cả thảy Vân Môn xưa nay mật nhỏ, nếu là Sơn tăng chỉ nói với Sư cơ thứ tám. Vân Môn nói: Cổ Phật cùng cột cái tương giao là cơ thứ mấy? Khoảng một chốc, hãy nhằm bao trùm trước mặt. Tăng hỏi: Chưa biết ý chỉ thế nào? Vân Môn đáp: Một sợi dây bán ba mươi xu. Sư có con mắt định càn khôn. Đã không có người hội, sau lại tự thay nói: Núi Nam khởi mây, núi Bắc rơi mưa. Vì kẻ hậu học mở một lối vào. Do đó Tuyết Đậu chỉ niêm Sư chỗ định càn khôn khiến người thấy. Nếu phạm suy tính, bày mũi nhọn ắt đối mặt lầm qua. Chỉ cốt nguyên vẹn tông chỉ Vân Môn và rõ cái cơ cao vót, vì thế tụng ra:

TỤNG:

Nam sơn vân
Bắc sơn vũ
Tứ thất nhị tam diện tương đổ
Tân La quốc lý tằng thượng đường
Đại Đường quốc lý vị đả cổ.
Khổ trung lạc
Lạc trung khổ
Thùy đạo huỳnh kim như phấn thổ?

DỊCH:

Mây núi Nam
Mưa núi Bắc
Ba mươi ba Tổ mặt cùng thấy
Trong nước Tân La từng thượng đường
Trong nước Đại Đường chưa đánh trống.
Vui trong khổ
Khổ trong vui
Ai nói vàng ròng như phân đất?

GIẢI TỤNG: Hai câu “mây núi Nam, mưa núi Bắc”, Tuyết Đậu bán mũ vừa đầu, xem gió mở buồm, nhằm trên kiếm bén vì ông hạ chú cước. Thẳng đến “ba mươi ba Tổ mặt cùng thấy”, chớ hiểu lầm. Đây chỉ tụng cổ Phật cùng cột cái tương giao là cơ thứ mấy xong rồi, phần sau mở đường tạo sắn bìm. Cần thấy ý Sư “trong nước Tân La từng thượng đường, trong nước Đại Đường chưa đánh trống”. Tuyết Đậu nhằm chỗ điện bay sao xẹt, liền nói “vui trong khổ, khổ trong vui”. Dường như Tuyết Đậu vun một đống thất trân bát bảo ở trong đây xong. Vì thế rốt sau có một câu nói: “Ai nói vàng ròng như phân đất?” Câu này là trích trong thi của Thiền Nguyệt bài Hành Lộ Nan, Tuyết Đậu dẫn ra dùng. Thiền Nguyệt nói: “Núi cao biển sâu người khôn tính, xưa qua nay lại càng xanh biếc, thiển cận nông nỗi chớ cùng giao, đất xấu chỉ biết sanh gai góc. Ai nói vàng ròng như phân đất. Trương Nhĩ, Trần Dư đoạn tin tức. Đi đường khó, đi đường khó, anh tự xem. Đâu chẳng đất rộng người thưa, Vân Cư, La-hán.”

TẮC 84

DUY-MA PHÁP MÔN BẤT NHỊ

LỜI DẪN: Bảo phải phải không chỗ phải, nói quấy quấy không chỗ quấy, phải quấy được mất cả hai quên, sạch trơn trọi hiện bày thong dong. Hãy nói trước mặt sau lưng là cái gì? Có Thiền khách ra nói: Trước mặtđiện Phật, ba cửa, sau lưng là nhà nghỉ, phương trượng. Thử nói người này lại đủ mắt hay không? Nếu biện được người này, hứa ông thân thấy cổ nhân đến.

CÔNG ÁN: Duy-ma-cật hỏi Văn-thù-sư-lợi: Những gì là Bồ-tát vào pháp môn bất nhị? Văn-thù đáp: Như ý tôi, đối tất cả pháp không nói không lời, không chỉ không biết, lìa các vấn đáp, ấy là vào pháp môn bất nhị. Văn-thù-sư-lợi hỏi Duy-ma-cật: Chúng tôi mỗi người tự nói xong, nhân giả phải nói những gì là Bồ-tát vào pháp môn bất nhị? Tuyết Ðậu nói: Duy-ma-cật nói gì? Lại bảo: Khám phá xong.

GIẢI THÍCH: Khi ngài Duy-ma-cật khiến các vị đại Bồ-tát mỗi vị nói về pháp môn bất nhị, ba mươi hai vị Bồ-tát đều lấy thấy hai là hữu vi vô vi, chân đế tục đế, hiệp làm thấy một là pháp môn bất nhị. Sau Ngài hỏi Bồ-tát Văn-thù, Văn-thù đáp: Như ý tôi, đối tất cả pháp không nói không lời, không chỉ không biết, lìa các vấn đáp, ấy là pháp môn bất nhị. Bởi vì ba mươi hai vị dùng lời dẹp lời, ngài Văn-thù dùng không lời dẹp lời, đồng thời quét sạch, thảy chẳng cần, là vào pháp môn bất nhị. Đâu chẳng biết linh qui bảo vệ cái đuôi khỏa dấu thành vết, cũng giống như dùng chổi quét bụi, bụi tuy hết mà vết chổi vẫn còn. Rốt sau vẫn như trước trừ dấu vết. Khi ấy Bồ-tát Văn-thù hỏi lại ông Duy-ma-cật: Chúng tôi mỗi người tự nói xong, nhân giả phải tự nói những gì là Bồ-tát vào pháp môn bất nhị? Ông Duy-ma-cật lặng thinh. Nếu là kẻ sống, trọn chẳng đến trong nước chết mà ngâm. Nếu khởi kiến giải thế ấy, giống như chó điên đuổi bóng. Tuyết Đậu chẳng nói lặng thinh, cũng chẳng nói im lặng giây lâu, chỉ ở chỗ gấp gấp nói. Hỏi Duy-ma-cật nói cái gì? Chỉ như Tuyết Đậu nói thế ấy, lại thấy Duy-ma-cật chăng? Mộng cũng chưa mộng thấy. Duy-ma-cật là vị cổ Phật thời quá khứ, cũng có quyến thuộc, giúp Phật tuyên hóa, đủ biện tài bất khả tư nghì, có cảnh giới bất khả tư nghì, có thần thông diệu dụng bất khả tư nghì. Ở trong cái thất một trượng vuông mà dung ba muôn hai ngàn tòa báu sư tử, cùng tám muôn đại chúng cũng chẳng thấy rộng hẹp. Hãy nói ấy là đạo lý gì? Gọi là thần thông diệu dụng được chăng? Chớ nên hiểu lầm. Nếu là pháp môn bất nhị, đồng đắc đồng chứng mới hay cùng chung chứng biết, chỉ riêng Văn-thù đáng cùng ông đối đáp. Tuy nhiên như thế, lại khỏi bị Tuyết Đậu kiểm trách hay không? Tuyết Đậu nói thế ấy, cũng cần cùng hai vị này thấy nhau. Hỏi Duy-ma nói cái gì? Lại nói khám phá xong. Ông hãy nói chỗ nào là chỗ khám phá xong? Chỉ cái này chẳng nệ được mất, chẳng rơi phải quấy, như bờ cao vạn nhẫn leo lên được bỏ tánh mạng, nhảy qua khỏi, hứa ông thấy Duy-ma-cật. Như bỏ chẳng được, giống như bầy nai chạm bờ rào. Tuyết Đậu cố nhiên là người bỏ được tánh mạng, vì thế tụng ra:

TỤNG:

Đốt! Giá Duy-ma lão
Bi sanh không áo não
Ngọa tật Tỳ-da-ly
Toàn thân thái khô cảo.
Thất Phật Tổ sư lai
Nhất thất thả tần tảo
Thỉnh vấn bất nhị môn
Đương thời tiện kháo đảo.
Bất kháo đảo
Kim mao sư tử vô xứ thảo.

DỊCH:

Dốt! Cái lão Duy-ma
Bi sanh không buồn thảm
Nằm bệnh Tỳ-da-ly
Toàn thân quá gầy ốm.
Tổ sư bảy Phật sang
Một thất hằng luôn quét
Thưa hỏi môn chẳng hai
Khi này liền tựa ghế.
Không tựa ghế
Sư tử lông vàng không chỗ tìm.

GIẢI TỤNG: Tuyết Đậu nói “dốt! cái lão Duy-ma”, ở đầu trước hạ một chữ dốt để làm gì? Lấy bảo kiếm Kim Cang Vương ngay đầu chặt đứt, phải là sáng đánh ba ngàn chiều đánh tám trăm mới được. Phạn ngữ nói Duy-ma-cật, Trung Hoa dịch Vô Cấu Xưng, cũng gọi Tịnh Danh, là đức Như Lai Kim Túc ở đời quá khứ. Tăng hỏi Hòa thượng Giản ở Vân Cư: Đã là Như Lai Kim Túc vì sao lại ở trong hội Phật Thích-ca nghe pháp? Hòa thượng Giản đáp: Ngài chẳng tranh nhân ngã, người đại giải thoát chẳng nệ thành Phật chẳng thành Phật. Nếu bảo Ngài tu hành mong thành Phật đạo, càng không dính dáng. Như kinh Viên Giác nói: Lấy tâm luân hồi sanh kiến luân hồi, vào biển đại tịch diệt Như Lai trọn không thể đến. Vĩnh Gia nói: “Hoặc phải hoặc quấy người chẳng biết, nghịch hạnh thuận hạnh trời khó lường.” Nếu thuận hạnh thì tiến đến quả vị Phật, nếu nghịch hạnh thì vào cảnh giới chúng sanh. Thiền sư Thọ nói: Dù ông mài luyện đến điền địa này, cũng chưa thỏa mãn ý của ông, đợi chứng thân Thánh vô lậu mới nên thuận hạnh nghịch hạnh. Vì thế Tuyết Đậu nói “bi sanh không buồn thảm”. Trong kinh Duy-ma nói: Vì chúng sanh bệnh nên ta cũng bệnh. Buồn thảm thì lòng bi mất vậy. Câu “nằm bệnh Tỳ-da-ly”, Duy-ma thị hiện bệnh ở thành Tỳ-da-ly. Đời Đường, Vương Huyền Sách đi sứ Tây Vức đến chỗ Ngài ở, lấy tay đo bề dọc bề ngang của thất ấy chỉ được mười hốt, do đó gọi là phương trượng. Câu “toàn thân quá gầy ốm”, nhân đem thân bệnh rộng vì người nói pháp: “Thân này là vô thường, không mạnh khỏe, không chắc chắn, là pháp chóng hư hoại không thể tin cậy, là khổ não là nhóm họp của các bệnh, cho đến là chỗ chung hợp của ấm giới nhập mà thành.” Câu “Tổ sư bảy Phật sang”, Văn-thù là Tổ sư bảy đức Phật, vâng lệnh Thế Tôn đến thăm bệnh ông. Câu “một thất hằng luôn quét”, trong phương trượng dẹp hết mọi vật, chỉ để lại cái giường, đợi Văn-thù đến thưa hỏi pháp môn bất nhị. Vì thế Tuyết Đậu nói: “Thưa hỏi môn chẳng hai, khi này liền tựa ghế.” Duy-ma-cật miệng như tấm biển. Hiện nay hàng Thiền khách tầm thường nói: Không lời là tựa ghế. Chớ nên nhận lầm trái cân bàn (một tiêu chuẩn cố định). Tuyết Đậu đẩy đến bờ cao muôn nhẫn, lại nói: “Không tựa ghế.” Một tay nâng lên một tay đè xuống, Sư có loại thủ đoạn này, quả thật dùng được linh động. Trước bài tụng niêm rằng: Duy-ma nói gì? Nay nói: “Sư tử lông vàng không chỗ tìm.” Chẳng những khi đó, hiện nay cũng thế ấy. Lại thấy lão Duy-ma chăng? Cả thảy núi sông đất liền cỏ cây rừng rú đều biến thành sư tử lông vàng, cũng dò tìm chẳng được.

TẮC 85

AM CHỦ ĐỒNG PHONG LÀM TIẾNG CỌP

LỜI DẪN: Nắm vững thế giới chẳng lọt mảy lông, người cả quả đất quên gươm ngậm miệng, là chánh lệnh của Thiền tăng. Đảnh môn phóng quang chiếu phá bốn thiên hạ, là tròng mắt Kim cang của Thiền tăng. Điểm sắt thành vàng, điểm vàng thành sắt, chợt bắt chợt thả, là cây gậy của Thiền tăng. Ngồi đoạn đầu lưỡi người trong thiên hạ, cho đến không có chỗ nhả hơi, thối lui ba ngàn dặm, là khí vũ của Thiền tăng. Hãy nói thảy chẳng thế ấy, cứu kính là thế nào, thử cử xem?

CÔNG ÁN: Tăng đến chỗ Am chủ Đồng Phong liền hỏi: Trong đây chợt gặp cọp thì làm thế nào? Am chủ liền làm tiếng cọp rống. Tăng liền làm thế sợ. Am chủ cười hả hả! Tăng nói: Cái lão giặc. Am chủ nói: Làm gì được Lão tăng? Tăng thôi đi. Tuyết Đậu nói: Phải thì phải, hai lão ác tặc chỉ biết bịt tai trộm linh.

GIẢI THÍCH: Dưới tông phái Đại Hùng (Bá Trượng) xuất phát bốn vị Am chủ: Đại Mai, Bạch Vân, Hổ Khê, Đồng Phong. Xem hai vị này mắt tay thân lanh thế ấy. Hãy nói kỳ quái ở chỗ nào? Cổ nhân một cơ một cảnh, một lời một câu, tuy nhiên xuất phátlâm thời. Nếu là nhãn mục toàn chánh tự nhiên sống linh động. Tuyết Đậu niêm khiến người biết tà chánh rành được mất. Tuy nhiên như thế, ở trên phần của người đạt đạo, tuy ở chỗ được mất mà chẳng được mất. Nếu lấy được mất mà xem các ngài thì không dính dáng. Người nay cần phải mỗi mỗi cùng tột chỗ không được mất, nhiên hậu dùng được mất biện người. Nếu một bề lo giản trạch ngôn cú dụng tâm, biết khi nào được xong. Đại sư Vân Môn nói: Kẻ đi hành cước chớ luống dạo châu chơi huyện, muốn được ngôn ngữ rỗng đưa lên đè xuống, đợi Hòa thượng già mở miệng liền hỏi thiền hỏi đạo, hướng thượng hướng hạ, làm sao thế nào, rồi biên chép thành một quyển để trong đãy da, đến bên lò lửa ba người năm người họp đầu thuật lại lăng nhăng, cái này là lời công tài, cái kia là lời tựu thân đả xuất, cái này là lời trên sự, cái kia là lời trong thể. Ông ở nhà cha mẹ ăn cơm xong chỉ nói mộng, nói ta hiểu Phật pháp. Nên biết đi hành cước thế ấy, đến năm lừa mới được thôi dứt. Cổ nhân trong lúc niêm lộng há có chấp hơn thua được mất phải quấy. Đồng Phong yết kiến Lâm Tế rồi, đến núi sâu cất am mà ở. Vị Tăng này đến nơi kia liền hỏi: Trong đây chợt gặp cọp thì làm sao? Đồng Phong liền làm tiếng cọp rống. Khéo đến việc liền đi. Vị Tăng này cũng biết đem lầm đến lầm, liền làm thế sợ. Am chủ cười ha hả! Tăng nói: Cái lão giặc. Đồng Phong nói: Làm gì được Lão tăng? Phải thì phải, hai người đều chẳng liễu, ngàn xưa về sau bị người kiểm điểm. Vì thế, Tuyết Đậu nói: Phải thì phải, hai lão ác tặc chỉ biết bịt tai trộm linh. Hai lão này tuy đều là giặc, đương cơ lại chẳng dùng, vì thế bịt tai trộm linh. Hai lão này như bày trận trăm muôn quân, lại chỉ đánh bằng chổi. Nếu luận việc này phải là kẻ có thủ đoạn giết người chẳng thèm ngó lại. Nếu một bề thả mà chẳng bắt, một giết mà chẳng tha, đâu khỏi bị người cười chê. Tuy nhiên như thế, cổ nhân kia cũng không có nhiều việc. Xem hai vị thế ấy thảy đều thấy cơ mà làm. Ngũ Tổ nói: “Chánh định thần thông du hí, chánh định huệ cự, chánh định Trang Nghiêm Vương”, chính là người sau gót chân chẳng dính đất. Chỉ kiểm điểm cổ nhân, liền nói có được có mất. Có người nói: Rõ ràngAm chủ bị thua, có gì dính dáng. Tuyết Ðậu nói: Hai người gặp nhau đều có chỗ phóng qua. Vị Tăng nói: Trong đây chợt gặp cọp thì làm sao? Đồng Phong liền làm tiếng cọp rống. Đây là chỗ phóng qua. Cho đến Đồng Phong nói: Làm gì được Lão tăng. Đây cũng là chỗ phóng qua, rõ ràng rơi vào cơ thứ hai. Tuyết Đậu nói: Cần dùng liền dùng. Người nay nghe nói thế ấy, liền nói: Khi ấy nên cho hành lệnh. Chớ nên dùng gông mù gậy đui. Vào cửa Đức Sơn liền đánh, vào cửa Lâm Tế liền hét, hãy nói ý cổ nhân thế nào? Phần sau Tuyết Đậu chỉ tụng như thế. Hãy nói cứu kính làm sao khỏi được bịt tai trộm linh.

TỤNG:

Kiến chi bất thủ
Tư chi thiên lý
Hảo cá ban ban
Trảo nha vị bị.
Quân bất kiến
Đại Hùng sơn hạ hốt tương phùng
Lạc lạc thanh quang giai chấn địa.
Đại trượng phu kiến dã vô
Thâu hổ vĩ hề loát hổ tu.

DỊCH:

Thấy đó chẳng lấy
Nghĩ đó ngàn dặm
Cọp đẹp vện vằn
Nanh vuốt chưa đủ.
Anh chẳng thấy
Dưới núi Đại Hùng bỗng gặp nhau
Rỡ rỡ tiếng vang rền dội đất.
Đại trượng phu thấy hay không
Nắm đuôi cọp chừ nhổ râu cọp.

GIẢI TỤNG: Hai câu “thấy đó chẳng lấy, nghĩ đó ngàn dặm”, chính ở chỗ hiểm không thể sử dụng. Kia nói làm gì được Lão tăng, nên vì bổn phận giải quyết. Khi ấy nếu hạ được thủ đoạn, kia ắt phải có lời sau. Một người chỉ biết phóng chẳng biết thâu, thấy đó chẳng lấy, sớm đã mây trắng muôn dặm, lại nói cái gì “nghĩ đó ngàn dặm”. Hai câu “cọp đẹp vện vằn, nanh vuốt chưa đủ”, phải thì phải, cọp cũng biết ẩn nanh giấu vuốt, tại sao chẳng biết chụp người? Ba câu “anh chẳng thấy, dưới núi Đại Hùng bỗng gặp nhau, rỡ rỡ tiếng vang rền dội đất”. Một hôm, Bá Trượng hỏi Hoàng Bá: Ở đâu đến? Hoàng Bá thưa: Nhổ nấm dưới núi đến. Bá Trượng hỏi: Lại thấy cọp chăng? Hoàng Bá liền làm tiếng cọp rống. Bá Trượng rút bên hông lấy chiếc búa, làm thế chém. Hoàng Bá ôm đứng liền tát. Đến chiều Bá Trượng thượng đường nói: Ở dưới núi Đại Hùng có một con cọp, cả thảy các ngươi ra vào cần phải nhìn kỹ, chính Lão tăng ngày nay bị nó cắn một cái. Sau này Qui Sơn hỏi Ngưỡng Sơn: Thoại đầu con cọp của Hoàng Bá thế nào? Ngưỡng Sơn thưa: Tôn ý Hòa thượng thế nào? Qui Sơn nói: Khi ấy Bá Trượng nên chặt một búa cho chết, vì sao đến như thế? Ngưỡng Sơn thưa: Chẳng phải vậy. Qui Sơn hỏi: Con lại thế nào? Ngưỡng Sơn thưa: Chẳng những cỡi đầu cọp, cũng biết nắm đuôi cọp. Qui Sơn nói: Tịch con có được câu bờ hiểm. Tuyết Đậu dẫn dùng để rõ phần trước công án, “rỡ rỡ tiếng vang rền dội đất”. Cái này có chuyển biến tự tại, cần trong câu có con đường xuất thân. Hai câu “đại trượng phu thấy hay không”, lại thấy chăng? “nắm đuôi cọp chừ nhổ râu cọp”, phải là bổn phận. Mặc ông nắm đuôi cọp, nhổ râu cọp, chưa khỏi một lúc bị xỏ lỗ mũi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11634)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11958)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11109)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11342)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12062)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12556)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10764)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17975)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11725)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9946)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12348)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15338)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11239)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12095)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15362)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11999)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12405)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11183)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12085)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10603)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12554)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13168)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14838)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12676)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16571)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19661)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13106)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12664)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12252)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11844)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10899)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13521)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11947)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11840)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11632)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12764)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14514)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12613)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13625)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12894)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9863)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18014)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11163)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9078)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13044)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10298)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12187)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15309)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16609)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12214)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11472)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14269)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19698)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14149)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24606)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10680)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant