Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tắc thứ Sáu: Một Ngày Đẹp Của Vân Môn

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15507)
Tắc thứ Sáu: Một Ngày Đẹp Của Vân Môn

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 1

TẮC THỨ SÁU

MỘT NGÀY ĐẸP CỦA VÂN MÔN

 

CỬ: Vân Môn Đại Sư nói, “Không hỏi ông về trước ngày mười lăm, sau ngày mười lăm thử nói một câu xem?” Rồi tự trả lời, “Ngày nào cũng là một ngày đẹp.”

BÌNH: Vân Môn Đại Sư thoạt đầu đến tham kiến Mục Châu. Lối dạy của mục Châu tựa như máy quay điện cuốn, thật khó mà bám víu. Bình thường cách đón tiếp người khác của Mục Châu là hễ bất cứ ai vừa bước vào là Mục Châu đã nắm lấy rồi nói, “ Nói, nói” Người kia vừa suy nghĩ, Mục Châu đã đẩy ra ngoài nói. “ Cái dùi xoáy thời nhà Tần!” Lúc Vân Môn đến gặp Mục Châu, lần thứ ba mới dám gõ cửa. Mục Châu hỏi “Ai” Vân Môn nói, “Văn Yển”.Mục Châu vừa hé cửa, Vân Môn đã nhào vào. Mục Châu giữ lại nói, “Nói, nói!” Vân Môn vừa suy nghĩ, bèn bị Mục Châu đẩy ra. Một chân của Vân Môn vẫn còn kẹt trong then cửa, Mục Châu đóng sầm cửa lại, làm gẫy mất chân Vân Môn. Vân Môn đau quá hét lên, song lập tức đại ngộ. Sau này những lời Vân Môn nói ra đều giống với Mục Châu. Sau đó Vân Môn còn ở trong nhà của Thượng Thư Trần Tháo ba năm.

Mục Châu dạy Vân Môn đến Tuyết Phong . Lúc đến nơi, Vân Môn bước ra khỏi tăng chúng hỏi, “ Phật là gì?” Tuyết Phong nói, “Đừng có nói mơ nữa.” Vân Môn bèn cúi lạy. Rồi ở đó ba năm. Một hôm Tuyết Phong hỏi, “Chỗ thấy của ông như thế nào?” Vân Môn nói , “Chỗ thấy của tôi chẳng khác chút nào với chỗ thấy của các bậc thánh thời xưa.”

Hòa Thượng Linh Thụ suốt hai mươi năm không bao giờ bổ nhậm một vị thủ toà nào. Thường nói, “Thủ tòa của tôi mới sinh,” và “ Thủ tòa của tôi đang chăn trâu.” Lại cũng nói, “ Thủ tòa của tôi đang hành cước.” Bỗng nhiên một hôm ra lệnh cho đánh chuông để tiếp vị thủ tòa ngoài cửa. Tăng chúng đều kinh ngạc, song quả nhiên Vân Môn đến thật. Linh Thụ bèn mời Vân Môn vào ở trong phòng dành cho thủ tòa. Thiên hạ gọi Linh Thụ là Tri Thánh Thiền Sư bởi vì thầy ta biết trước các việc trong quá khứ cũng như vị lai.

Một hôm người cai trị Quảng Đông là Lưu Vương sắp hưng binh, định đích thân đến tu viện hỏi Sư xem việc ấy có thuận tiện không. Linh Thụ đã biết trước cho nên thảnh thơi ngồi mà mất. Lưu Vương tức giận nói, “Hòa thượng đau từ bao giờ vậy?” Thị giả đáp, “Thầy chẳng hề đau gì cả, chỉ niêm một cái hộp lại và dặn rằng khi nào vương đến thì trình lên cho vương.” Lưu Vương mở hộp ra thấy một tấm thiệp nói, “ Nhân thiên nhãn mục, chính là vị thủ tòa trong đường.” Lưu Vương hiểu ý, bèn không hưng binh nữa, và mời Vân Môn ra mặt trụ trì ở Linh Thụ. Sau này Sư mới về ở Vân Môn.

Vân Môn khai đường thuyết pháp, có người hỏi, “Trái cây Linh Thụ đã chín chưa?” Vân Môn nói, "Có bao giờ ông nghe nói là chưa chín không?”

Một hôm Lưu Vương mời Sư vào trong điện để kiết hạ, cùng với một vài vị tôn túc khác , để giảng giảithuyết pháp cho các quan viên. Chỉ có mình Sư không nói gì và cũng chẳng có ai gần gũi. Có một vị nội quan làm một bài kệ dán trên điện rằng, “ Tu hành đại trí mới là Thiền, Thiền cần im lặng không huyên hoa. Vạn lời nói khéo đâu phải thật, sao bằng Vân Môn chẳng nói năng.”

Vân Môn bình thường thích nói ba chữ Thiền là “ Quan Sát” (cố), “ Suy Niệm” (giám) và “ Hừ” (di). Lại cũng nói một chữ Thiền. Có ông tăng hỏi, “ Giết cha giết mẹ thì sám hối trước Phật, còn giết Phật giết Tổ thì sám hối trước ai đây? Vân Môn nói, “Lộ”. Lại hỏi, “Chính Pháp Nhãn Tạng là gì?” Vân Môn nói, “Phổ”. Không để cho người ta cơ hội để so đo. Trong các trường hợp thông thường Vân Môn cũng hay mắng người ta. Mỗi khi nói ra một lời, tựa như thể một thanh sắt vậy.

Sau đó dưới trướng của Vân Môn xuất hiện bốn bậc minh triết là Đông Sơn Sơ, Trí Môn Khoan, Đức Sơn Mật, và Hương Lâm Viễn, đều là những bậc đại tông sư. Hương lâm làm thị giả cho Vân Môn suốt mười tám năm trời. Ngày ngày Vân Môn chỉ gọi, “Thị giả!” Lúc Hương Lâm nói, “Dạ”. Vân Môn lại nói, “Cái gì đây?” Cứ như thế suốt mười tám năm đến một ngày kia Hương Lâm mới ngộ. Vân Môn nói, “ Từ rày trở đi tôi sẽ không gọi ông nữa.” Bình thường lúc dạy người khác Vân Môn thường dùng phương pháp của Mục Châu. Có điều hơi khó bám víu, bởi vì Vân Môn có búa liềm để nhổ đinh bạt chốt. Tuyết Đậu nói, “ Tôi thích các phương pháp mới mẻ của Thiều Dương Lão Nhân, thầy ta suốt đời chỉ nhổ đinh bạt chốt cho thiên hạ.

Vân Môn đưa ra một vấn đề để dạy chúng, “Không hỏi ông về trước ngày mười lăm, sau ngày mười lăm thử nói một câu xem?” Sư cắt đoạn hết các sai biệt chi li chẳng thông phàm thánh. Rồi lại tự trả lời, “ Ngày nào cũng là một ngày đẹp.” Trước ngày mười lăm,” lời này cũng cắt đứt hết các sai biệt chi li. Có điều Vân Môn không nói rằng sau ngày mười lăm là ngày mười sáu. Người đời sau cứ tha hồ giải thích, song có gì là nhằm nhò? Vân Môn lập tông phong, đương nhiên phải có chỗ vì người. Vừa dạy xong, lại tự đáp cho mọi người, “Ngày nào cũng là một ngày đẹp.” Lời này thông quá kim cổ, từ trước đến sau trong một lúc đoán định cả.

Sư núi tôi nói năng như vậy, cũng là dựa theo ngôn ngữ mà hiểu. Giết người không bằng tự giết mình. Vừa mới lập nên nguyên tắc là đã rơi vào hố sâu. Trong một câu của Vân Môn đã gom đủ cả ba câu. Đó chính là tông chỉ gia phong của sư. Bất cứ một lời dạy nào của Vân Môn cũng phải được truy về nguồn. Nếu không như thế thì chỉ võ đoán mà thôi. Việc này không cần đến nhiều luận thuyết như thế. Nếu như hiểu thấu đương nhiên lạp tức thấy ngay ý chỉ của cổ nhân. Hãy xem Tuyết Đậu bày vẽ dây dưa:

TỤNG:

Bỏ đi một,

Nêu lên bẩy.

Bốn phương trên dưới chẳng gì bằng,

Lững thững đạp dứt tiếng nước trong.

Thoáng nhìn thấy rõ vết chim bay,

Cỏ rậm rạp,

Khói bồng bềnh.

Trên vách Không Sinh[16] hoa tơi tả,

Búng thay, thương thay “ thuấn nhã đa.”[17]

Đừng động đậy,

Động đậy ta cho ba chục gậy!

BÌNH: Tuyết Đậu tụng cổ bao giờ cũng được như vậy.Trước tiên bao giờ cũng lấy Kim Cương Bảo Kiếm múa một hồi, sau đó mới để lộ một chút phong qui. Tuy như vậy, song rốt cuộc không thể hiểu theo lối nhị nguyên được.

“Bỏ đi một, nêu lên bảy.” Người ta thường hay hiểu đạo theo con số, nói rằng, “Bỏ đi một là việc của trước ngày mười lăm.” Tuyết Đậu đột nhiên hạ bút viết hai câu đã ấn phá tất cả, song lại để lộ một chút cho người ta thấy. “ Bỏ đi một, nêu lên bảy”. Điều kỵ nhất là đừng dựa vào ngôn ngữ mà so đo. Tại sao vậy? Bánh khô làm sao có chút nước? Thiên hà phần nhiều rơi vào ý thức. Cần phải hiểu ý nghĩa của vấn đề trước khi ngôn ngữ được thốt ra. Lúc ấy đại dụng hiện tiền tự nhiên là mình sẽ thấy được.

Đó chính là lý doThích Ca Mâu Ni sau khi thành đạo ở nước Ma Kiệt Đà đã bỏ ra hăm mốt ngày để tư duy về vấn đề này. “Các pháp tịch diệt tướng, không đạt bằng ngôn ngữ. Ta không nên thuyết pháp, mau nhập đạt bằng ngôn ngữ. Ta không nên thuyết pháp, mau nhập Niết Bàn ngay.” Đến chỗ đó rồi thì ngay cả Đức Thích Ca cũng không có chỗ để mở miệng. Song nhờ ở phương tiện thiện xảo, sau khi thuyết pháp cho năm vị tỳ kheo xong, ngài đã đến ba trăm sáu mươi chúng hội, giải thích giáo lý cho người thời ấy. Tất cả những điều này chỉ là phương tiện, cho nên ngài mới cởi bỏ y phục rách rưới của người hành giả. Bất đắc dĩ mới phải noi theo ý nghĩa công ước của chỗ thiển cận để mà dẫn dụ các ông. Nếu như bảo ngay một lúc nói lên sự thật, hẳn là đã chẳng có đến một người, hay thậm chí nửa người, hiểu nổi.

Thử nói xem thế nào là câu cứu cánh? Đến đây Tuyết Đậu để lộ ra một chút ý nghĩa cho người khác thấy. Các ông chỉ cần ở trên đừng thấy có chư Phật, ở dưới đừng thấy có chúng sinh, bên ngoài chẳng thấy có sơn hà đại địa, bên trong chẳng thấy có kiến văn giác tri, lúc ấy ông sẽ giống như người chết đi sống lại. Với tốt xấu sẽ chẳng còn thấy chúng là khác nhau nữa. Sau đó các ông tha hồ ung dung mà không mất quân bằng.Lúc ấy mới hiểu được lời của Tuyết Đậu rằng, “ Bỏ đi một, nêu lên bẩy. Bốn phương trên dưới chẳng gì bằng.” Nếu như hiểu thấu được câu tụng này, thì quả thật là bốn phương trên dưới chẳng có gì so nổi. Sâm la vạn tượng, cây cỏ thú người, mọi vật đều phản ảnh gia phong của mình mà thôi. Cho nên mới có lời nói, “Ở trong vạn tượng riêng lộ thân, chỉ kẻ tự tin mới là gan. Năm xưa lầm lẫn lang thang kiếm, ngày nay nhìn thấy lửa trong băng.” Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn.” Đa số người ta chỉ theo đuổi ngọn mà quên mất gốc. Phải đạt được cái mốc một cách chính đáng, lúc ấy tự nhiên gió thổi cỏ rạp, nước tới sông dâng. “Lững thững đạp dứt tiếng nước trong.” Lúc ấy dù đi lững thững cũng có thể đạp dứt tiếng nước cả. “Thoáng nhìn thấy rõ vết chim bay.” Đưa mắt thoáng nhìn, dù cho đó là vết chim bay, cũng thấy rõ ràng như thể có vẽ ra. Đến mức độ này rồi thì “ thổi tắt ngọn lửa dưới vạc dầu, rừng kiếm núi đao đều gãy tan,” chẳng có gì là khó.

Đến chỗ này rồi, Tuyết Đậulòng từ bi, sợ thiên hạ lại vướng vào cái vòng dững dưng, cho nên lại nói tiếp, “ Cỏ rậm rạp, khói bồng bềnh. Thử nói xem đây là cảnh giới của ai? Có thể gọi là ngày nào cũng là một ngày đẹp đưọc không? May thay mà điều này chẳng có gì là nhằm nhò. Đến lúc “ lững thững đạp dứt tiếng nước trong” cũng không phải, mà “ thoáng nhìn thấy rõ vết chim bay” cũng không phải, mà “ thoáng nhìn thấy rõ vết chim bay” cũng không phải; “ cỏ rậm rạp” cũng không phải, “khói bồng bềnh” cũng không phải. Chẳng có cái gì là phải cả. Lúc ấy chính là “ trên vách không sinh hoa tơi tả” Song cũng còn cần phải qua phía bên kia mới được. Như Tư Bồ Đề tránh nơi ồn ào tìm chốn yên tĩnh, vào trong hang tĩnh tọa, chu thiên rải hoa xuống tán thán. Tu Bồ Đề hỏi, “Ai vậy?” Một trong chư thiên nói, “Tôi là trời Đế Thích.” Tu Bồ Đề Hỏi, “Ngài tán thán cái gì vậy?” Đế Thích nói, “Tôi trọng tôn giả khéo giảng Bát Nhã Ba La Mật.” Tu Bồ Đề nói, “Tôi chưa từng nói một chữ nào về Bát Nhã, tại sao ngài tán thán?” Đế Thích nói, “Tôn giả không có nói, tôi không có nghe. Không nói không nghe, đó chính là Bát Nhã chân thật. Rồi lại làm mặt đất rung chuyển, rải hoa xuống nữa.

Tuyết Đậu cũng có một bài tụng để nói về vấn đề này, “Mưa tạnh mây tan trời nửa sáng, mấy đỉnh chót vót như bích họa. Không Sinh chẳng biết ngồi trông hốc,khiến cho đất động hoa trời rơi.” Đế Thích đã làm cho mặt đất rung chuyển và hoa trời rơi xuống. đến mức đó rồi biết ẩn trốn ở đâu đây? Tuyết Đậu lại nói, “ Ta sợ có trốn cũng không được, cõi ngoài trời đất đầy ăm ắp. Mơ mơ hồ hồ bao giờ dứt, tám phương gió mát mơn tà áo.” Dù cho ông có sách sẽ trơn tru, không một chút lỗi lầm âu lo, cũng vẫn chưa phải là chỗ cùng cực. Rốt cuộc thì thế nào mới là cùng cực. “Búng tay thương thay thuấn nhã đa.” “Thuấn nhã đa” là chữ Phạn có nghĩa là tinh thần của hư không, lấy hư không làm thể, không có thân thể hữu hình để xúc chạm. Lúc Phật quang chiếu mới hiện rõ thân hữu hình. Lúc nào ông đạt được “thuấn nhã đa” RỒI, Tuyết Đậu sẽ búng tay mà thở than. Tuyết Đậu lại nói, “Đừng động đậy!” Động đậy thì như thế nào? Giống như giữa thanh thiên bạch nhật, mở mắt mà ngủ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15758)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11056)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53615)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12955)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16510)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15383)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19148)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19917)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15544)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15337)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15139)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20312)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23915)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15463)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13015)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20070)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13267)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29010)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11686)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18269)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16639)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13226)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12793)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13233)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12963)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12857)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 12999)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13534)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11703)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14219)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17715)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22575)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13434)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14321)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105727)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14592)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19760)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38407)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15512)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34667)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16046)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11317)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15642)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14018)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12820)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13692)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12487)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19362)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 26997)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13105)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13458)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21581)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17953)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21863)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14194)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16056)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16105)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19084)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24763)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant