Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Bảy: Huệ Siêu Hỏi Về Phật

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15372)
Tắc thứ Bảy: Huệ Siêu Hỏi Về Phật

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 1

TẮC THỨ BẢY

HUỆ SIÊU HỎI VỀ PHẬT 

 

THÙY: Trước tiếng một câu, ngàn thánh không truyền. Chưa thấy rõ ra, như xa ngàn cõi. Dù cho ông có phân biện được nó trước khi có âm thanh thốt lên, làm tất cả thiên hạ phải líu lưỡi, ông vẫn chưa phải là một tay sắc bém. Cho nên mới nói rằng, “Trời không che hết, đất không chở nổi. Hư không không chứa nổi, trời trăng không chiếu được.”Chỗ không có Phật, mình được tôn xưng,mới bắt đầu một sợi lông, phóng đại quang minh, tung hoành ngang dọc, tự tại trong sự vật, bất cứ cái gì đụng tay vào, không có cái gì là không phải. Thử nói xem, đạt được cái gì mà lại kỳ đặc như thế? Lại nói, “Đại chúng có hiểu không?” Ngựa mệt thuở trước không ai biết, chỉ nói công lao chum cả trời. Bây giờ tạm gác việc này qua một bên, công án của Tuyết Đậu thì như thế nào? Xin thử nêu lên xem.

CỬ: Có ông tăng (Huệ Siêu) hỏi Pháp Nhãn, “Huệ Siêu xin hỏi hòa thượng , Phật là gì?” Pháp Nhãn nói, “Chú là Huệ Siêu.”

BÌNH: Pháp Nhãn có khả năng vừa đập vừa mổ, và lại biết sử dụng cái khả năng này cho nên mới đáp như thế được. Đó chính là siêu việt qua thanh sắc, đắc đại tự tại, túng đoạt sinh sát gì là ở nơi mình cả. Thầy ta quả thậtđặc sắc. Người ở các nơi bàn luận về công án này rất nhiều, số người lấy tri thức cảm quan ra hiểu nó cũng không phải là ít. Đâu có biết là mỗi khi cổ nhân dạy một câu hay một lời đều tựa như đá lửa điện chớp, mở thẳng ra một con đường chính.

Người đời sau chỉ dựa vào ngôn ngữ mà hiểu. Có kẻ nói, “Huệ Siêu chính là Phật cho nên Pháp Nhãn mới trả lời như thế.” Có người nói, “giống như thể đang cưỡi trâu mà lại đi tìm trâu.” Cũng có người nói, “Chính câu hỏi là vấn đề.” Những điều này có gì là nhằm nhò? Nếu hiểu như thế thì không những là tự phụ bạc mình mà còn làm khuất khúc cổ nhân biết mấy. Nếu như muốn thấy được trọn vẹn khả năng của Pháp Nhãn, ông phải là loại người bị đánh một gậy cũng không quay đầu, có răng như rừng kiếm miệng như bát máu, biết tìm lối về bên ngoài ngôn ngữ, thì mới có phần nào khế hợp. Nếu như ái nấy đều hiểu theo tri thức thường tình, thì cả trời đất này chỉ toàn là những kẻ làm diệt mất dòng dõi của Phật. Còn như Huệ Siêu giác ngộ ở đây, ấy là nhờ thầy ta lúc nào cũng quán chiếu tham cứu, cho nên chỉ nghe một lời là đã có thể như cái thùng bị đập lủng đáy.

Cũng như ông tăng giám viện Tắc tuy ở trong chúng hội của Pháp Nhãn song chưa từng xin nhập thất. Một hôm Pháp Nhãn hỏi ông ta, “Tại sao viện chủ không nhập thất?” Tắc đáp, “ Hòa thượng không biết là hồi ở với Thanh Lâm đệ tử có chứng được đôi chút sao?” Pháp Nhãn nói, “Ông thử kể lại cho tôi nghe xem.” Tắc nói, “Đệ tử hỏi Phật là gì?” Thanh Lâm nói “Bính Đinh đồng tử đến xin lửa.”Pháp Nhãn nói , “Lời hay lắm song tôi e rằng ông hiểu lầm. Thử nói gì nữa xem sao.” Tắc nói, “Bính Đinh là lửa, lấy lửa mà đi tìm lửa. Cũng như đệ tử đã là Phật rồi lại còn đi tìm Phật”.Pháp Nhãn nói, “ Quả nhiên là giám viện hiểu lầm rồi.” Tắc không vui mới thu dọn hành trang bỏ qua sông. Pháp Nhãn nói “ Người này nếu trở lại thì còn cứu được, nếu không trở lại thì không cứu được nữa.” Đến giữa đường Tắc tự suy gẫm: “người này là bậc thiện tri thức của năm trăm người, chẳng lẽ ông ta lại lừa mình sao?” Bèn trở lại, vào tham kiến Pháp Nhãn. Pháp Nhãn nói, “Ông cứ hỏi đi, tôi sẽ trả lời cho.” Tắc hỏi, “Phật là gì?”Pháp Nhãn nói, “Bính Đinh đồng tử đến xin lửa.”Nghe lời ấy Tắc bèn đại ngộ.

Thời buổi này có những kẻ trợn mắt làm như là hiểu. Cũng như câu nói: “không có vết thương đừng gây thương tích.” Loại công án này đối với những người có tham thiền từ lâu thì chỉ vừa mới nêu lên là đã hiểu ngay cốt yếu của nó. Trong dòng Thiền của Pháp Nhãn gọi loại công án này là “ tiễn phong tương trụ” (đầu mũi tên nhọn gặp nhau)[18].Họ không sử dụng phương phápngũ vị quân thần”[19]hay “tứ liệu giản”[20], mà chỉ nói về “tiễn phong tương trụ.” Đó chính là gia phong của Pháp Nhãn, trong một lời có thể thấy ngay hiểu ngay. Còn nếu như đi tìm trong ngôn ngữ rốt cuộc chẳng biết đâu mà rờ[21].

Pháp Nhãn ra mặt với đời đồ chúng có đến năm trăm người. Lúc ấy Phật pháp hưng thịnh vô cùng Thiều Quốc Sư tham học với Sơ Sơn đã lâu, tự cho là đắc ý chỉ của Sơ Sơn. Cho nên mới thu thập tất cả văn chương cùng với di ảnh của Sơ Sơn lãnh đạo một số đồ chúng đi hành cước. Đến nơi của Pháp Nhãn, chính Thiều không bao giờ nhập thất mà chỉ dạy cho đồ đề của mình túy theo những người khác mà nhập thất. Một hôm Pháp Nhãn thượng đường, có ông tăng hỏi, “Thế nào là một giọt nước từ Tào Khê?” Pháp Nhãn nói, “ Thì là một giọt nước từ Tào Khê.” Ông tăng hoang mang thối lui. Thiều Quốc Sư cũng có mặt trong chúng hộ, nghe thấy lời ấy hốt nhiên đại ngộ. Sau đó xuất hiện trên đời với tư cách là người thừa tự của Pháp Nhãn. Từng trình bày bài tụng rằng, “Đỉnh núi thông huyền , không phải nhân gian. Ngoài tâm không pháp, đầy mắt núi xanh.” Pháp Nhãn ấn khả rằng, “ Chỉ một bài tụng này thôi tự nhiên cũng đủ thừa lế tông phái của ta. Sau này thế nào ông cũng được các bậc vương hầu kính trọng, ta không bằng được ông”.

Hãy nhìn các bậc cổ nhân đạt giác ngộ như thế, rốt cuộc là gì vậy? Bảo sư núi tôi nói cho các ông đâu có đủ mà các ông cần phải tự mình suốt ngày tôi luyện tinh thần. Nếu các ông có thể đảm đương được như vậy, sau này các ông có thể thỏng tay vì người nơi ngã tư đường mà chẳng thấy gì là khó.

Cho nên khi ông tăng kia hỏi, “Huệ Siêu xin hỏi hòa thượng Phật là gì?” Pháp Nhãn nói, “Chú là Huệ Siêu.” Pháp Nhãn có chút gì phụ lòng ông tăng đâu? Không nghe Vân Môn nói sao? “ Nếu không xét, tức sai lầm. Toan so đo, đời nào ngộ?” Tuyết Đậu tụng hiển hách thật. Thử nêu lên xem!

TỤNG: 

Giang quốc gió xuân thổi không lên,

Chim sáo hót trong bụi hoa sầu.

Ba bực sóng cao cá hóa rồng,

Kẻ mê vẫn múc nước hồ đêm.

Tuyết Đậu đúng là tay thông thạo. Những cái khó nhai khó nuốt, khó thâu khó nhập của cổ nhân, thầy ta đều tung ra cho người khác thấy, kỳ đặc hết sức. Đã biết được then chốt của Pháp Nhãn lại nắm được cả cốt yếu của Huệ Siêu.Lại sợ người đời sau hiểu lầm lời lẽ của Pháp Nhãn, cho nên mới tụng ra. Ông tăng kia hỏi như vậy, Pháp Nhãn đáp như vậy, chính là “giang quốc gió xuân thổi không lên, chim sáo hót trong bụi hoa sâu.” Hai câu này chỉ là một câu. Thử nói xem, ý của Tuyết Đậu là ở đâu. Giang Tây Giang Nam thường có hai lối hiểu, cho nên nói “ Giang quốc gió xuân thổi không lên” là để tụng câu “ chú là Huệ Siêu.” Còn “chim sáo hót trong bụi hoa sâu” là để tụng các lời bàn tán huyên hoa của các phương, giống như thể tiếng chim sáo hót trong bụi hoa sâu. Song chẳng có gì là nhằm nhò cả. Đâu có biết rằng hai câu này của Tuyết Đậu chỉ là một câu. Không muốn có chỗ sơ hở nào cho nên mới nói với các ông, ngôn ngữ đã đến cùng cực, bao trùm trời đất. Ông tăng kia hỏi Phật là gì. Pháp Nhãn nói, “ chú là Huệ Siêu” Tuyết Đậu nói, “Giang quốc gió xuân thổi không lên, chim sáo hót trong bụi hoa sâu.” Nếu vào được chỗ này thì có thể lững thững lên trời cao.Nếu như ông dùng tri thức cảm quan mà hiểu thì ba đời sáu mươi kiếp cũng không xong.

Câu thứ ba và câu thứ tư của Tuyết Đậu quả là từ bi cùng tột vì người khác mà một lúc nói toạc ra. Siêu Thiền Sư nghe câu nói mà đại ngộ tức là “ba bực sóng cao cá hóa rồng, kẻ mê vẫn múc nước hồ đêm.” Cửa Vũ ba bực sóng, Mạnh Tân tức là Long Môn, Vũ Đế đục làm ba bực, ba ngày ba tháng. Lúc hoa đào nở, trời đất cảm ứng, có con cá vượt qua Long Môn trên đầu mọc sừng bờm râu tua bủa. cưỡi mây mà đi.Những con cá không nhảy qua sóng được thì bị điểm lên đầu mà trở về. Kẻ mê mờ lo nhai ngôn ngữ, giống y như là tát nước hồ ban đêm để bắt cá vậy. Đâu có hay rằng cá đã biến thành rồng đi mất hút rồi. Đoan hòa thượng tụng, “Một đồng tiền Đại Quang,mua được cái bánh rán. Ăn vào tới trong bụng lập tức không đói nữa.” Bài tụng này kỳ diệu lắm, chỉ có điều hơi vụng về. Tuyết Đậu tụng thật vi diệu, cho nên không bị mũi kiếm đâm vào tay. Giống như Tàng chủ Khánh hỏi, “Thế nào là “ba bực sóng cao cá hóa rồng”? Tôi cũng chẳng quan tâm, có điều tôi muốn hỏi ông, hóa thành rồng rồi bây giờ ở đâu?
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33297)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6558)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11306)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30420)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30445)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7994)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12221)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12270)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11619)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12850)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34812)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9859)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52285)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10765)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10537)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10728)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10478)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13097)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16306)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21865)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9636)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7138)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10404)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12781)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12806)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16249)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16548)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13878)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16614)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12140)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13849)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14339)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9225)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11767)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11290)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16353)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14367)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16211)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12702)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12097)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11806)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15686)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11527)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14031)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12024)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12675)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15006)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11976)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13142)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14567)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20741)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13247)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10977)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20734)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14380)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20407)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17675)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14036)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31870)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12029)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant