Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tắc thứ Mười: Ba Tiếng Hét Của Mục Châu

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15226)
Tắc thứ Mười: Ba Tiếng Hét Của Mục Châu

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 1

TẮC THỨ MƯỜI

BA TIẾNG HÉT CỦA MỤC CHÂU 

 

THÙY: Như vầy như vầy, không như vầy không như vầy. Luận việc chiến, ai cũng nắm chỗ then chốt. Cho nên mới có câu nói, “Nếu như hướng thượng mà đi, thì ngay cả Thích Ca , Di Lặc, Văn Thù, Phổ Hiền, ngàn vạn bậc thánh, và các bậc tông sư trong thiên hạ đều phải ngậm miệng ấm ức cả. Nếu hướng hạ mà đi, thì côn trùng giòi bọ cùng tất cả mọi sinh vật đều phóng đại quang minh, mọi vật đều vươn mình như núi cao vạn trượng.” Nếu như không hướng thượng mà cũng cũng không hướng hạ thì sao? Nếu có nguyên tắc thì dựa vào nguyên tắc, nếu không có nguyên tắc dựa vào thông lệ. Thử nêu ra xem.

CỬ: Mục Châu hỏi ông tăng, “Ông mới từ đâu đến vậy?” Ông tăng bèn hét. Mục Châu nói, “Lão tang bị ông hét một lần.” Ông tăng lại hét nữa. Mục Châu nói, “Ba bốn tiếng hét, sau đó thì sao?” Ông tăng không nói gì được. Mục Châu bèn đánh rồi nói, “Cái gã vô tích sự này.”

BÌNH: Bất cứ ai muốn chống giữ tông môn của chúng ta đều cần phải có đôi mắt của bậc tông sư cũng như khả năng của bậc tông sư. Mục Châu linh hoạt sắc bén, như thể điện chớp, thích thử mấy vị tòa chủ. Thường thì một lời hay nửa câu mà thầy ta thốt ra , đều giống như các bụi gai góc, không thể nào mà dẫm chân sờ tay vào được. Mỗi khi có ông tăng nào đến liền nói, “ Công án đã thành, tha cho ông ba chục gậy.’ Hoặc thấy có ông tăng nào đến, Mục Châu liền gọi, “Thượng tọa!” Ông tăng vừa quay lại, Mục Châu lại nói, “Đồ khiêng gỗ”. Mỗi lúc dạy chúng lại thường nói, “ Chưa có chỗ vào, cần phải tìm chỗ ra chỗ vào. Đã có chỗ vào rồi, không được phụ lòng lão tăng.” Mục Châu vì người khác thường là như vậy cả.

Ông tăng này cũng điêu luyện lắm, có điều đầu rồng đuôi rắn. Lúc ấy nếu không phải là Mục Châu bất cứ người nào khác hẳn đã bị ông ta làm cho lúng túng một phen rồi. Chẳng hạn như lúc Mục Châu hỏi ông ta, “Ông mới từ đâu đến vậy?” Ông tăng bèn hét. Thử hỏi xem, ý ông ta là thế nào? Song lão hán này lại chẳng vội vàng mà vẫn thong thả nói, “ Lão tăng bị ông hét một lần.” Tựa như một mặt chấp nhận lời ông tăng một mặt thử thách ông ta, nghiêng mình nhìn xem ông ta như thế nào. Một lần nữa ông tăng lại hét, ông ta có vẻ đúng song thật ra lại chẳng đúng. Ông ta kể như đã bị Mục Châu xỏ lỗ mũi khi lão hán này hỏi, “ Ba bốn tiếng hét , sau đó thì sao?” Ông tăng này quả nhiên không nói gì được. Mục Châu bèn đánh rồi nói, “ Cái gã vô tích sự này.”

Thử người rốt ráo thật, há miệng đã tri âm. Đáng tiếc thay, ông tăng này lại không nói được gì, khiến Mục Châu phải gọi ông ta là gã vô tích sự. Nếu như các ông bị Mục Châu hỏi, “ Ba bốn tiếng hét, sau đó thì sao?” Các ông phải trả lời thế nào để khỏi bị Mục Châu gọi là đồ vô tích sự? Nếu như là bậc biết còn mất, phân biệt được đúng sai, chân đứng trên sự thật, ai thèm lo sau ba bốn tiếng hét thì sao. Song chỉ vì ông tăng này không nói gì được, cho nên mới bị lão hán này dựa trênkết thúc được cho nên mới bị lão hán này dực trên các dữ kiệnkết thúc công án. Thử lắng nghe tụng của Tuyết Đậu xem.

TỤNG: 

Hai hét với ba hét,

Thành thạo biết cơ biến.

Nếu như cưỡi lưng cọp,

Cả hai thành ra mù.

Ai mù đâu?

Nêu lên cho cả thiên hạ xem!

BÌNH: Tuyết Đậu luôn luôn đặc biệt vì người khác. Nếu như không phải là một chuyên gia hẳn thầy ta đã chỉ hét lung tung. Có lúc một tiếng hét không dùng như một tiếng hét, có lúc một tiếng hét dùng như một tiếng hét, có lúc một tiếng hét như sư tử ngồi xổm, có lúc một tiếng hét như Kim Cương Bảo Kiếm.” Hưng Hóa nói, “Tôi thấy các ông dưới hiên đông cũng hét, dưới mái tây cũng hét, hét loạn xà ngầu để làm cái gì? Lâm Tế nói, “Tôi nghe nói các ông bắt chước tôi hét, tôi thử hỏi các ông, đông đường có ông tăng bước ra, tây đường có ông tăng bước ra, cả hai ông tăng đều hét một tiếng, ai là chủ ai là khách? Nếu như các ông không phân biệt được chủ khách, từ rày về sau đừng bắt chước tôi hét nữa.

Cho nên Tuyết Đậu tụng rằng, “ Thành thạo biết cơ biến.” Ông tăng kia tuy bị Mục Châu bao vây, song cũng vẫn còn biết chỗ cơ biến. Thử nói xem, chỗ nào là chỗ ông tăng kia biết chỗ cơ biến? Lộc Môn Trí Thiền Sư phê bình ông tăng này rằng, “ Người biết Pháp sự?” Nham Đậu nói,” Luận việc chiến, ai cũng nắm then chốt.” Hoàn Long Tâm nói, “Cùng tắc biến, biến tắc thông”.[29] Đây chính là chỗ mà các tổ sư làm cho người trong thiên hạ phải líu lưỡi. Nếu như các ông là người hiểu cơ biến thì vừa nêu lên đã hiểu ngay chỗ cốt yếu.

Có lắm kẻ nói, “cần phải bận tâm đến việc Mục Châu nói ba bốn tiếng hét làm gì, cứ tiếp tục hét. Nói gì hai chục ba chục tiếng hét, cứ việc hét cho đến khi Phật Di Lặc hạ sinh, gọi là cưỡi lưng cọp. Nếu các ông có tri kiến như thế, tức là chẳng hiểu Mục Châu. Dù cho muốn hiểu ông tăng kia đi nữa, các ông cũng quá xa vời. Giống như người cưỡi lưng cọp, cần phải trong tay có đao cũng như biết uyển chuyển thì mới được.

Tuyết Đậu nói nếu như thế thì “ cả hai thành ra mù.” Tuyết Đậu giống như thanh ỷThiên trường kiếm, uy phong lẫm lẫm. Nếu như hiểu được ý của Tuyết Đậu tự nhiên hiểu được ngàn điều vạn điều cùng một lúc. Lúc ấy sẽ thấy rằng phần cuối tụng của Tuyết Đậu chỉ là cước chú mà thôi. Lại nói, “ Ai mù đâu?” Chủ mù hay là khách mù? Chứ không phải là chủ khách đều cùng mù sao? Tôi xin nêu ra để người trong thiên hạ cùng thấy.” Đây chính là chỗ sống động, Tuyết Đậu một lúc tụng ra luôn. Nhưng mà tại sao Tuyết Đậu lại nói, “ Nêu lên cho cả thiên hạ xem?” Thử nói coi, các ông xem như thế nào? Nhắm mắt cũng được, mở mắt cũng được, song còn có ai tránh được chăng?
 
 

[1] “Thánh đế đệ nhất nghĩa”. Triết học Phật giáo phân biệt hai sự thật (satyadvaya,nhị đế), (a) paramàrtha (chân đế, hay đệ nhất nghĩa đế) tức là sự thật cứu cánh, thuộc phạm vi (gocàra) của trí giác ngộ, (b) samvrtisatya (tục đế) hay sự thật công ước, thuộc phạm vi của tri thức thường tình. Chữ Phạn Satya trong trường hợp này có thể dịch là “thực tại” (reality).

[2] Ở đây chúng tôi theo bản của Ito Yuten. Bản của Cổ Phương Thiền Sư không có chữ “Phật”.

[3] Nhị Tổ tức Huệ Khả hay Thần Quang. Về tiểu sử của Huệ Khả xin xem Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, cùng một dịch giả sẽ xuất bản.

[4] Kinh Phóng Quang Bát Nhã (Pancavimsatisahàsrikàpraj-nàparàmità), một trong những bản kinh quan trọng của Bát Nhã Bộ. xem Taishò 221.

[5] “Tất dũng”: cái thùng đen. Chữ trong Thiền học ám chỉ sự vô minh.

[6] Bản của Cổ Phương Thiền Sư không có đoạn này.

[7] Bản của Cổ Phương Thiền Sư: “ toại bất phục cứu” có vẻ đúng hơn.

[8] Ở đây chúng tôi theo bản của Cổ Phương Thiền Sư

[9] Tam Tổ tức Tăng Xán .Về tiểu sử xin xem Cảnh Đức Truyền Đăng Lục cùng một dịch giả, sẽ xuất bản.

[10] Nguyên văn “đả thành nhất phiến”, ngụ ý không còn phân biệt giữa tâm và cảnh, nhân và ngã.

[11] Tức Mã Tổ Đạo Nhất, về tiểu sử xin xem Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, cùng một dịch giả, sẽ xuất bản.

[12] Theo Phật danh Kinh thì trong một ngàn vị Phật thuộc hiền kiếp vị Phật thứ hai trăm lẻ hai tên là Nguyệt Diện Phật, còn vị Phật thứ tám trăm năm mươi tám tên là Nhật Diện Phật.

[13] Kinh Kim Cương (Vajracchedikàprajnàpàramità Sùtra) cũng là một kinh quan trọng thuộc Bát Nhã Hệ.

[14] Tâm là chủ của vạn pháp” có thể so sánh với kệ số 1 trong Dhammapada: Manopubbángamà dhammà manosetthà manomayà, manasà ce padutthena bahàsati va karoti và tatonam dukkham anveti cakkam va vahato padam.(xem V,Fausboll. The Dhammapada. London: Luzac & Co.1900 trang 3).

[15] Tào Khê là nơi Lục Tổ Huệ Năng cư ngụ, cho nên trong truyền thống Thiền chữ Tào Khê thường được dùng để chỉ Lục Tổ.

[16] Không Sinh tức là ngài Tu Bồ Đề (Subhuti).

[17] Thuấn-nhã-đa tức là dịch âm của chữ Phạn “sùyatà”có nghĩa là không.

[18] Có nghĩa là câu hỏi và câu trả lời trực tiếp chạm nhau như thể hai đầu mũi tên.

[19] Pháp môn của phái Thiền Tào Động.

[20] Pháp môn của phái Thiền Lâm Tế. Xin xem thêm trong Lâm Tế Lục, cùng một dịch giả, sắp xuất bản.

[21] Hai đoạn này không có trong bản của Cổ Phương Thiền Sư.

[22] “minh”.Bản của Ito Yeten: “viên” (viên mãn).

[23] Thỉnh ích, có nghĩa là tham khảo thêm với bậc thầy.

[24] Phần Dương Thiện Chiểu (947-1024) thuộc dòng Lâm Tế, có công trong việc tổng hợp các giáo lý của nhiều tông phái Thiền khác nhau..

[25] “Trần” có nghĩa là đối tượng của cảm quan.

[26] Bản của Cổ Phương Thiền Sư không có câu này.

[27] Thược-ca la phiên âm của chữ Phạn “súkla” có nghĩa là trong sạch.

[28] Theo bản của Ito Yuten: “ Phật đưa nắm tay lên hỏi, “mở hay đóng?”

[29] Lời nói từ Kinh Dịch

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22060)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15912)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 14931)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18782)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14348)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18497)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14299)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13452)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13443)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11723)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13159)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13568)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13838)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13154)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 14917)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16067)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 10988)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16321)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11777)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17474)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12796)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13585)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12789)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14777)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16249)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13027)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12000)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12661)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12789)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12692)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14031)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14023)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16355)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12293)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14288)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11184)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 10935)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13123)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13800)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13067)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12905)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13412)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12603)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10126)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13818)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10137)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13597)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16166)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11874)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12875)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11558)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12580)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10699)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10892)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10860)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11805)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12659)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 10982)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12521)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11232)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant