Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tắc thứ Mười Một: Kẻ Uống Cặn Rượu Của Hoàng Bá

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15548)
Tắc thứ Mười Một: Kẻ Uống Cặn Rượu Của Hoàng Bá

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 2

TẮC THỨ MƯỜI MỘT

KẺ UỐNG CẶN RƯỢU CỦA HOÀNG BÁ

 

THÚY: Phật Tổ đại cơ, nắm cả trong tay. Mạng sống người trời, đều chịu sai sử. Một lời vẩn vơ, cũng làm kinh động quần chúng. Một cơ một cảnh, đánh tung xiềng xích. tiếp nhận cơ hội hướng thượng, bàn đến sự siêu việt. thử nói xem, từng có ai đến như thế? Có ai biết cốt yếu của việc này chăng? Xin nêu lên xem thử.

CỬ: Hoàng Bá dạy chúng rằng, “ Các ông chỉ là những kẻ uống cặn rượu. Hành cước như thế, ở đâu có ngày hôm nay? Có biết là trong xứ Trung Quốc này không có Thiền Sư chăng?” Lúc ấy có ông tăng bước ra nói, “Thế những người hướng dẫn đồ chúng ở khắp các nơi thì sao?” Hoàng Bá nói, “Tôi đâu có bảo là không có Thiền, chỉ có điều không có những bậc thầy mà thôi.”

BÌNH: Hoàng Bá thân cao bảy thước[1], trên trán có cục thịt nhô ra trông như thể viên ngọc tròn. Bẩm sinh thông hiểu Thiền. có truyền thuyết nói rằng đã từng đồng hành với La Hán [2] . Hồi xưađi lên núi Thiên Thai, giữa đường gặp một ông tăng, hai người cười nói với nhau như thể thâm giao. Hoàng Bá nhìn kỹ ông tăng, thấy ông ta có đôi mắt sáng quắc, có vẻ dị tướng.Hai người đồng hành với nhau, đến khi gặp dòng suối nước lũ kia, Hoàng Bá chống gậy, cởi nón đứng đó. Ông tăng kia thúc Sư cùng qua sông , Sư nói, “Ông cử qua trước đi Ông tăng kia bèn vén áo nhón bước trên sông như thể đi trên đất bằng, vừa quay đầu lại nói,”Qua đi, qua đi!” Hoàng Bá hét, “Đồ ích kỷ! Tôi mà biết ông dở trò như thế, tôi đã sớm chặt phăng chân ông đi rồi!” Ông tăng kia thở dài nói, “Đúng là bậc Pháp khí [3] của Đại Thừa!” Nói xong biến mất.

Lúc Hoàng Bá mới đến gặp Bách Trượng, Bách Trượng nói, “ Nguy nga hùng vĩ, từ đâu đến vậy?” Hoàng Bá nói, Nguy nga hùng vĩ, từ đỉnh núi tới.” Bách Trượng nói, “Đến có việc gì vậy?” Hoàng Bá nói, “ Không vì việc gì khác cả.” Bách Trượng coi trọng là bậc Pháp khí.

Hôm sau từ giã Bách Trượng, Bách Trượng nói, “Đi đâu vậy?” Hoàng Bá nói, “Đi Giang Tây để ra mắt Mã Đại Sư.” Bách Trượng nói, “Mã Đại Sư đã qua đời rồi.” Hoàng Bá nói, “ Không hiểu lúc sinh thời, Mã Đại Sư có nói những gì? Mong được nghe lại.” Bách Trượng bèn thuật lại nhân duyên gặp Mã Tổ: “Lúc Mã Tổ thấy tôi tới, ngài dơ phất trần lên. Tôi hỏi, “ Thầy là một hay khác với hành động này?” Mã Tổ bèn treo phất trần nơi đầu giường Thiền. Mãi lâu sau Mã Tổ mới hỏi, “Sau này ông khua môi múa mỏ, vì người như thế nào?” Tôi dựt lấy phất trần dơ lên. Mã Tổ nói, “ông là một hay khác với hành động này?” Tôi treo lại phất trần nơi đầu giường Thiền. Mã Tổ thị uy hét một tiếng khiến tôi lúc ấy bị điếc tai suốt ba ngày.”

Hoàng Bá bất giác rùng mình le lưỡi.Bách Trượng nói, “Sau này ông còn muốn thừa tự Mã Đại Sư chăng?” Hoàng Bá nói, “ Không. Hôm nay được nghe thầy thuật lại đại cơ đại dụng của Mã Đại Sư, nếu như thừa tự Mã Đại Sư, e rằng sau này tôi sẽ tuyệt tự mất.” Bách Trượng nói, “Đúng thế, đúng thế. Nếu kiến giải của một người mà bằng với thầy mình, đó là làm giảm mất một nửa đức của thầy. Phải có trí huệ vượt hơn thầy của mình, mới xứng đáng được truyền thụ. Chỗ kiến giải của ông hiện giờ, có căn cơ để vượt hơn thầy lắm.” Các ông thử nói xem, Hoàng Bá hỏi như thế là đã biết mà còn cố hỏi, hay là không biết mà hỏi? Phải biết hàng trang của cha con trong môn phái của họ thì mới hiểu được.

Một hôm Hoàng Bá lại hỏi Bách Trượng, “Tông thừa của chúng ta từ xưa đến nay, được chỉ thị như thế nào?” Bách Trượng nói, “Tôi cứ nghĩ ông là người đó.” Rồi đứng lên bỏ vào phương trượng.

Hoàng Bá với tướng quốc Bùi Hưubạn thân. Sư thường giảng tâm yếu cho Bùi Hưu.[4] Lúc Bùi Hưu làm tổng trấn Uyển Làng có mời Sư đến quận, trao cho Sư một thiên sách viết về chỗ kiến giải của mình. Hoàng Bá tiếp lấy để xuống ghế chẳng hề mở ra xem. Mãi lâu sau mới nói, “Hiểu không?” Bùi Hưu nói, “Không hiểu.” Hoàng Bá nói, “Nếu ông hiểu như thế thì còn có chút chỗ đắc. Nếu như ông nệ vào giấy mức bề ngoài, thì có chỗ nào là tông của tôi? Bùi Hưu bèn làm bài tụng tán thán rằng, “Từ khi Đại Sĩ truyền tâm ấn, trán có viên châu thân bảy thước. Treo gậy mười năm bên sông Thục, trôi nổi hôm nay ghé bến Chương.Tám ngàn rồng voi theo bước lớn, vạn dặm hương hoa kết thắng nhân. Những muốn theo thầy làm đệ tử, chưa biết thầy trao Pháp cho ai?” Hoàng Bá chẳng tỏ vẻ vui mừng, nói, “Tâm như biển lớn không ngằn mé,miệng nhả hoa sen nuôi thân bệnh. Ta có một đôi tay vô sự, chẳng từng vái chào kẻ rỗi hơi.” Hoàng Bá trù trì, cơ phong cao vút. Lâm Tế cũng có trong chúng hội, Mục Châuthủ tòa.Mục Châu hỏi Lâm Tế, “ Thầy ở đây bao lâu rồi, tại sao không vào hỏi gì đi?” Lâm Tế nói, “Xin cho tôi hỏi cái gì mới đúng?” Mục Châu nói, “Tại sao không vào hỏi ý chỉ của Phật Pháp là gì?’ Lâm Tế vào hỏi ba lần, ba lần bị đáng đuổi ra. Lâm Tế bèn giã từ Mục Châu, “Nhờ thủ tòa dạy ba lần tôi vào hỏi đều bị đánh đuổi ra. E rằng tôi không có nhân duyên với chốn này. Thôi thì tạm thời hạ sơn vậy.” Mục Châu nói, “ Nếu ông muốn đi, ông nên vào từ biệt Hòa thượng mới phải.” Rồi vào trước nói với Hoàng Bá. “Vị thượng tọa vào hỏi kia là một người kiếm có lắm, tại sao Hòa thượng không dùi mài cho ông ta trở thành một cội cây che mát cho thiên hạ?” Hoàng Bá nói. “Ta biết rồi”.

Lâm Tế vào từ biệt, Hoàng Bá nói, “Ông không cân phải đi đâu cả, chỉ cần đến thẳng bến Cao An mà gặp Đại Ngu.” Lâm Tế đến gặp Đại Ngu thuật lại câu chuyện trước đó rồi nói, “ Kẻ hèn này không hiểu mình có lỗi ở chổ nào?” Đại Ngu nói, “Hoàng Bá mới từ bi làm sao, vì ông mà tận lực như thế, ông còn lo đi nói lỗi phải cái gì.”. Lâm Tế đại ngộ nói, “ Phật Pháp của Hoàng Bá chẳng có gì là nhiều nhặn.” Đại Ngu nắm lấy Lâm Tế nói, “ Vừa rồ! ông mới nói mình có lỗi, bây giờ lại nói Phật Pháp chẳng có gì nhiều nhặn.” Lâm Tế đánh vào hông Đại Ngu ba lần. Đại Ngu đẩy Lâm Tế ra nói, “ Thầy của ông là Hoàng Bá, chuyện này chẳng có gì nhằm nhò đến tôi cả.”

Một hôm Hoàng Bá dạy chúng nói, “Ngưu Đầu Pháp Dung Đại Sư nói ngang nói dọc, song vẫn chưa biết then chốt của con đường hướng thượng. Ngày nay những kẻ học Thiền với Thạch ĐầuMã Tổ huyên hoa nói Thiền nói Đạo.” Tại sao Sư lại nói như thế? Cho nên mối dạy chúng rằng, “Các ông chỉ là một lũ uồng cặn rượu. Các ông mà hành cước như thế chỉ tổ khiến thiên hạ cười cho.

Thấy chỗ nào qui tụ tám trăm một ngàn người là tới. Chỉ lo đi tìm nhiệt náo như thế đâu có được, nếu như ở đây ai cũng thích dễ dãi như các ông thì đâu còn có chỗ như ngày hôm nay.” Thời nhà Đường người ta có thói mắng người khác là “đồ uống cặn rượu.’ Đa số thiên hạ bảo là Hoàng Bá thích mắng người. Song những ai có mắt tự nhìn thấy cốt ý của Hoàng Bá. Cái ý chính là thả móc đế câu câu hỏi của người ta. Trong chúng hội có một người học Thiền không tiếc thân mạng cho nên mới bước ra hỏi rằng, “Thế những người hướng dẫn đồ chúng ở khắp nơi thì sao?” Kể cũng là một câu hỏi hay. Lão hán này quả nhiên không giải thích được cho nên bèn mập mờ nói, “Tôi đâu có bảo là không có Thiền, chỉ có điều là không có những bậc thầy mà thôi.” Thử nói xem ý của Hoàng Bá ở chổ nào?

Tông chỉ từ xưa là có lúc bắt, có lúc buông, có lúc giết, có lúc cứu, có lúc thu, có lúc thả. Dám hỏi chư vị, thế nào mới là bực thầy trong Thiền ? Sư núi tôi vừa nói thế, kể như đã mất cả mặt mũi rồi. Lỗ mũi của chư vị ở đâu? Lâu sau mới nói, “Bị xỏ cả rồi.”

TỤNG: 

Lẫm liệt siêu quần chẳng tự khoe,

Biển đời ngồi nghiêm phân rồng rắn.

Đại Trung thiên tử từng coi nhẹ,

Ba bận đích thân đụng móng vuốt.

BÌNH: Câu tụng này của Tuyết Đậu có vẻ như thực sự tán thán Hoàng Bá. Song người ta không được hiểu là tán thán thật. Ngay trong câu của thầy ta đã có chỗ xuất thân. Tuyết Đậu rõ ràng nói, “ Lẫm liệt siêu quần chẳng tự khoe. Hoàng Bá dạy chúng như vậy đâu phải để tranh với người khác, tự phô trương, tự phụ, tự khoe đâu. Nếu như ông hiểu được vấn đề này, ông tha hồ tự tại tung hoành. Có lúc đứng một mình trên đỉnh cao, có lúc lăng xăng giữa chợ. Há cần phải hẹp hòi chấp nhặt một xó? Ông càng xả ông càng bất an, càng kiếm càng không thấy, càng ôm đồm thì càng chìm đắm. Cổ nhân nói, “ Không cánh bay khắp thiên hạ, có danh truyền khắp thế gian.” Tận tình xả hết các đạo lý huyền diệu kỳ đặc trong Phật Pháp, một lúc buông bỏ cả thì cũng còn tạm được. Lúc ấy bất cứ ở đâu tự nhiên ( Phật Pháp) sẽ hiện thành.

Tuyết Đậu nói, “ Biển đời ngồi nghiêm phân rồng rắn.” Rồng hay rắn? Bất cứ ai vừa bước vào cửa, đã thử thách người ấy ngay, đó gọi là đôi mắt phân rồng rắn, khả năng bắt hổ tê. Tuyết Đậu còn nói, “Mắt phân rồng rắn hề sao đúng, tài bắt hồ tê hề bất toàn.” Lại nói, “Đại trung thiên tử từng coi nhẹ, Ba bân đích thân dụng móng vuốt.” Hoàng Bá đau phải bây giờ mới thế, thầy ta lúc nào cũng vậy cả. Còn về Đại Trung thiên tử thì theo Tục Hàm Thông Truyện có ghi rằng Đường Hiến Tông (trị vì 847-860) có hai người con, một tên là Mục Tông một tên là Tuyên Tông. Tuyên Tông tức là Đại Trung. Năm mười ba tuổi, tuy còn trẻ song thông minh đỉnh ngộ, thích ngồi kiết già. Lúc Mục Tông còn tại vị, một hôm sau khi bãi triều buổi sáng, Đại Trung mới đùa lên ngôi trên ngai vàng giả chào các quần thần. Một vị đại thần trông thấy ngở là Đại Trung điên mới bẫm lại cho Mục Tông. Lúc Mục Tông trông thấy thế, mới tán thán rằng, “Em ta quả thật là bậc anh hào của dòng dõi.”

Mục Tông mất vào năm thứ tư niên hiệu Trường Khánh (842), để lại ba người con là Kính Tông, Văn Tông và Vũ Tông. Kính Tông kế vị cha trị vì được hai năm, cho đến khi nội thần âm mưu truất phế.Văn Tông lên kế vị được mười bốn năm. Lúc Tông lên lế vị thường gọi Đại Trung là thằng điên. Một hôm Vũ Tông vẫn còn giận chuyện Đại Trung đùa lên ngôi ngai vàng của cha mình, sai người đánh cho một trận gần chết rồi đem quẳng ở phía vườn sau tưới nước bẩn lên chotỉnh lại. Đại Trung mới bỏ trốn vào chúng hội của hòa thượng Hương Nghiêm Nhàn, sau đó cắt tóc làm sa di, song chưa thụ giới cụ túc. Sau khi du phương với Chí Nhàn.Lúc đến Lô Sơn Chí Nhàn làm một bài thơ về thác nước như sau, “ Xuyên mây xẻ đá ngại gì sao, đất xa mới biết chốn này cao.” Chí Nhàn ngâm hai câu ấy, rồi trầm tư hồi lâu, muốn khích Đại Trung thổ lộ để xem ông ta là người như thế nào. Đại Trung đọc tiếp, “ Khe suối làm sao giữ lại được? Về biển làm nên sóng dãt dào.” Chí Nhàn mới biết rằng ông không phải là người tầm thường, thầm lấy làm cảm kích.

Sau đến chúng hội của Diêm Quan, Đại Quan được mời làm thư ký. Hoàng Bá làm thủ tòa ở đó. Một hôm Hoàng Bá lễ Phật, Đại Trung trông thấy hỏi, “ Không chấp trước vào Phật mà cầu, không chấp trước vào Pháp mà cầu, không chấp trước vào tăng mà cầu, lễ bái để cầu cái gì vậy? Hoàng Bá nói, “ Tôi chẳng chấp trước vào Phật mà cầu, chẳng chấp trước vào Pháp mà cầu, chẳng chấp trước vào tăng mà chỉ lễ bái như vậy thôi.” Đại Trung hỏi, “ lễ báo để làm gì?” Hoàng Bá bèn tát. đại Trung nói, “ Thô suất quá.” Hoàng Bá nói, “Ở đây là đâu để mà ông nói thô tế?” Hoàng Bá lại tát. Sau này lúc Đại Trung lên kế vị ngai vàng phong Hoàng Bá là Thô Hành Sa Môn. Sau này lúc Bùi Hưu có ở triều đình xin phong cho Hoàng bá là “Đoạn Tế Thiền Sư.”

Tuyết Đậu biết chỗ huyết mạch xuất xứ, cho nên mới sử dụng được một cách khéo léo như thế. Hiện giờ còn ai muốn dơ móng vuốt ra chăng? Tôi đánh cho đấy!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22254)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16000)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15014)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18923)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14430)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18611)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14399)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13560)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13539)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11805)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13220)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13642)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13919)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13240)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15013)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16148)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11076)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16436)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11883)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17578)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12864)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13690)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12838)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14842)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16369)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13117)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12070)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12746)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12877)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12756)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14151)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14092)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16446)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12369)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14371)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11293)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11013)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13181)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13879)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13145)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12989)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13483)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12707)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10224)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13953)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10210)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13685)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16248)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11945)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12957)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11626)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12651)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10778)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10972)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10926)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11863)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12735)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11044)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12603)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11298)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant