Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Mười Ba: Chén Bạc Của Ba Lăng

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15990)
Tắc thứ Mười Ba: Chén Bạc Của Ba Lăng

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 2

TẮC THỨ MƯỜI BA

CHÉN BẠC CỦA BA LĂNG

 

THÙY:Mây đọng trên đồng, không che trời đất, Tuyết phủ hoa lau, khó phân dấu vết. Chỗ lạnh lạnh như băng tuyết, chỗ nhỏ nhỏ như bột gạo. Chổ sâu mắt Phật khó nhìn, chỗ kín ngoại ma khó dò. Nếu một hiểu ba tạm dẹp qua, làm cả thiên hạ líu lưỡi thì như thế nào? Thử nói xem đó là việc của ai? Xin thử nêu lên xem sao.

CỬ: Có ông tăng hỏi Ba Lăng, “Thế nào là tông của Đề Bà?”[14] Ba Lăng nói, “Tuyết đầy trong chén bạc.”

BÌNH: Công án này thường bị người ta hiểu lầm mà bảo rằng đây là tông của ngoại đạo. Đâu có gì là đúng. Tổ thứ mười lăm Đề Bà vốn cũng đã từng là một trong các ngoại đạo, nhân trông thấy tổ thứ mười bốn là Long Thụ Tôn Giả[15] lấy kim bỏ vào bát. Long Thụ cảm kích sâu xa mới truyền tâm ấn của Phật cho Đề Bà làm tổ thứ mười lăm. Kinh Lăng Già nói, “ Phật dạy tâm làm tông, vô môn làm pháp môn.” Mã Tổ nói, “Phàm có ngôn cú thì là tông của Đề Bà, chí lấy đó làm chủ mà thôi.” Các ông đều là khách trông tông môn của nạp tăng, các ông đã từng nghiên cứu thấu suốt tông của Đề Bà chưa? Nếu như đã thấu suốt thì cả chín mươi sáu thứ ngoại đạo của Tây thiên[16] đã bị các ông hàng phục một lúc. Nếu không thấu suốt thì các ông khó tránh khỏi phải mặc áo cà sa ngược mà đi. Thử nói xem như thế nào? Nếu nói là ngôn ngữ cũng không đúng, mà bảo không phải là ngôn ngữ cũng chẳng đúng. Thử nói xem ý của Mã Đại Sư là ở chỗ nào?

Vân Môn nói, “ Mã Đại Sư nói hay lắm có điều chẳng có ai hỏi cả.” Có ông tăng bèn hỏi, “Thế nào là tông môn của Đề Bà?” Vân Môn nói, “Trong chín mươi sáu loại ngoại đạo, ông là loại thấp nhất.”

Hồi xưa có ông tăng từ giã Đại Tùy. Đại Tùy nói, “Chú đi đâu?” Ông tăng nói, “Đi đảnh lễ Phổ Hiền.” Đại Tùyphất trần lên nói, “ Văn Thù Phổ Hiền đều ở đây cả”. Ông tăng vạch một vòng tròn rồi lấy tay đẩy về phía Đại Tùy, rồi lại ném về phía sau. Đại Tùy nói, “Thị giả, chuẩn bị trà cho ông tăng này ngay!”

Vân Môn cũng nói, “Ở Ấn Độ người ta chặt đầu chặt tay, ở đây chỉ tự mình đi ra mà thôi.” Lại nói, “ Cờ đỏ trong tay ta.”

Phàm ở Ấn Độ khi có luận nghị (giữa các tôn giáo), người thắng cầm cờ đỏ, kẻ thua thì phải mặc áo cà sa ngược mà đi ra bằng cửa hông. Muốn luận nghị trước tiên phải có sắc lệnh của vua, rồi đóng chuông đánh trống trong tự viện lớn, sau đó mới bắt đầu luận nghị. Lúc ấy ngoại đạo phong kín chuông trống trong tự viện của Phật giáo, nói là để sa thải. Ngài Cà Na Đề Bà biết rằng Phật Giáo có nạn, bèn vận thần thông lên lầu đánh chuông để đuổi các ngoại đạo ra. Ngoại đạo nói, “ Ai đánh chuông trên lầu vậy?” Đề Bà nói, “Thần.” Ngoại đạo hỏi, “ Thần là ai?” Đề Bà nói, “ Thần là ta.” Ngoại đạo nói, “Ta là ai?” Đề Bà nói, “Ta là ngươi.” Ngoại đạo nói, “Người là ai?” Đề Bà nói, “Ngươi là chó.” Ngoại đạo hỏi, “Chó là ai?”. Đề Bà nói, “Chó là ngươi.” Sau bảy vòng như thế, ngoại đạo tự biết là mình thua hèn mở cửa lầu. Do đó Đề Bà từ trên lầu cầm cờ đỏ bước xuống. Ngoại đạo nói, “ Sao ông không đi sau?” Đề Bà nói, “ Sao ngươi không đi trước?” Ngoại đạo nói, “Ông là người hạ tiện.” Đề Bà nói, “Người là kẻ lương thiện.”

Cứ thế mà hỏi đáp, song Đề Bà dùng biện tài vô ngại của mình mà bẻ ngoại đạo. Ngoại đạo do đó mới chịu qui phục. Lúc ầy Đề Bà tay cầm cờ đó, kẻ thua cuộc thì đứng dưới cờ. Lúc ấy Đề Bà tay cầm cờ đó, kẻ thua cuộc thì đứng dưới cờ. Lúc ấy ngoại đạo có tục lệ chặt đầu chuộc lỗi, song Đề Bà bèn chấm dứt cái tục ấy. Chỉ bảo họ cạo đầu theo Phật giáo. Từ đó tông của Đề Bà đâm ra hưng thịnh. Tuyết Đậu sau dùng tích này để tụng.

Trong chúng hội Ba Lăng có biệt danh là Giám Đa Khẩu, thường đem tọa cụ đi hành cước, lại đắc được chỗ uyên áo của giáo lý Vân Môn, cho nên hết sứcđặc sắc. Sau này ra đời với tư cách là người truyền thừa của Vân Môn. Trước tiên ở Ba Lăng, Nhạc Châu. Sư không có viết gì về việc truyền thừa Pháp, chỉ dùng ba chữ then chốt để dâng lên Vân Môn: “Đạo là gì? Người mắt sáng rơi xuống giếng.”Thế nào là lưỡi kiếm chẻ sợi tóc? Từng nhánh san hô chống mặt trăng?” Thế nào là tông của Đề Bà? Tuyết đầy trong chén bạc. Vân Môn nói, “ Sau này vào ngày giỗ kỵ, của lão tăng, các ông chỉ cần đọc ba lời then chốt này là kể như đã trả ơn đầy đủ.” Sau này quả nhiên ( Ba Lăng) không làm lễ giỗ kỵ,mà y theo lời Vân Môn chỉ tụng ba lời then chốt trên.

Sau này các nơi trả lời câu hỏi này thường dựa vào các sự kiện trên, chỉ có Ba Lăng là nói như vậy, thầy ta thật là siêu quần bạt tụy, hết sức là khó hiểu. Thầy ta chẳng để lộ chút nào chỗ sắc bén của mình, chịu sự tấn công của kẻ địch từ tám hướng, và dưới bất cứ đòn nào cũng vẫn có chỗ né tránh. Thầy ta có khả năng bẫy hổ,cũng như tước đoạt tất cả các kiến chấp của thiên hạ. nếu luận về việc một vấn đề này[17], đến chỗ này người ta cần phải tự mình thấu suốt lấy, song cũng vẫn còn cần phải được bậc thiện tri thức mới được. Cho nên mới có câu nói, “Đạo Vũ khoa trương, đồng lứa hiểu; Thạch Củng giương cung thức giả thấu.” Nguy6en lý này mà không có bậc thầy ấn thủ cho, biết dùng giáo lý nào để nói chỗ huyền diệu của nó đây? Sau đó Tuyết Đậu vì người khác mà nêu lên, cho nên mới tụng:

TỤNG:

Lão Tân Khai,

Ghê gớm thật

Biết nói trong chén bạc đầy tuyết.

Chín mươi sáu loại cần tự biết.

Không biết phải hỏi trăng trên trời.

Đề Bà Tông, Đề Bà Tông!

Dưới lá cờ đỏ gió phất phơ.

BÌNH: Tân Khai là tên của tự viện. “ Ghê gớm thật” là lời tán thán của Tuyết Đậu. Thử nói xem ghê gớm ở chỗ nào? “ Tất cả ngôn ngữ, đều là Phật Pháp.” Sưnúi tôi nói như thế có nghĩa là gì? Tuyết Đậu hé mở ra một chút khi thầy ta nói Ba Lăng ghê gớm thật. Sau đó thầy ta lại mở tung ra khi thầy ta nói, “ Biết trong chén bạc đầy tuyết.” Rồi lại cho các ông thêm cước chú rằng: “ Chín mươi sáu loại cần tự biết.” Song người ta phải có thua trước thì mới biết được ( thắng là thế nào). Nếu như các ông biết, thì cứ đi hỏi mặt trăng trên trời. Cổ nhân từng đáp câu hỏi này rằng, “Đi hỏi trăng trên trời.”

Cuối bài tụng Tuyết Đậu phải khai mở ra lối thoát cho một câu giống như con sư tử quay ngược lại ( nhảy xổ tới các ông). Cho nên thầy ta mới nêu lên với các ông rằng, “Đề Bà Tông, Đề Bà Tông, Dưới lá cờ đỏ gió phất phơ.” Ba Lăng nói, “Trong chén bạc đầy tuyết.” Tại sao Tuyết Đậu lại nói, “Dưới lá cở đỏ gió phất phơ?” Các ông đã biết là Tuyết Đậu giết người mà không dùng dao chăng?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11631)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11948)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11101)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11341)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12061)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12554)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10763)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17973)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11723)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9944)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10167)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12348)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15337)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11238)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12094)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15360)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11997)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12400)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11171)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12085)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10602)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12553)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13158)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14836)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12675)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16568)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19659)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13106)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12662)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12252)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11843)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10897)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13518)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11944)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11840)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11630)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12762)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14513)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12612)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15663)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13621)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12892)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9860)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18014)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11161)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9076)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13042)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10298)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12184)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15304)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16606)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12212)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11464)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14265)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19697)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14148)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24605)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10679)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant