Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Mười Bảy: Hương Lâm Ngồi Lâu

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15851)
Tắc thứ Mười Bảy: Hương Lâm Ngồi Lâu

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 2

TẮC THỨ MƯỜI BẢY

HƯƠNG LÂM NGỒI LÂU

 

THÙY: Chặt đinh cắt sắt, mới có thể là tông sư của bổn môn. Né tên sợ đao, sao có thể là tay thông thạo?Tạm không nói đến chỗ mà mũi kim xuyên không lọt.Thử nói xem lúc sóng rắng cuốn tận trời thì như thế nào? Thử nêu lên xem.

CỬ:Có ông tăng hỏi Hương Lâm, “Thế nào là ý của Tổ Sư từ Tây thiên qua?” Hương Lâm nói, “Ngồi lâu thấm mệt.”

BÌNH: Hương Lâm nói, “Ngồi lâu thấm mệt.” Hiểu không? Nếu hiểu được thì trên trăm ngọn cỏ bãi can qua. Nếu không hiểu thì hãy lắng nghe phân xử. Cổ nhân hành cước, chọn bạn làm đồng hành, thường phác có mà ngóng gió. Lúc Vân Môn hoàng đạo ở Quảng Nam,thì Hương Lâm mới rời đất Thục. Thầy ta là người đồng thời với Nga Hồ vá Kính Thanh. Thoạt tiên đến tham Thiền ở Chùa Báo Từ, Hồ Nam; sau mới đến chúng hội của Vân Môn, làm thị giả cho Vân Môn suốt mười tám năm.

Ở nơi của Vân Môn,Hương Lâm tự đắc tự nghe. Thầy ta tuy ngộ trễ, song quả là bậc đại căn khí. Đứng hầu Vân Môn suốt mười tám năm, Vân Môn đã nói, “ Cái gì đây?” Lúc ấy Hương lâm trình kiến giải của mình lên không biết bao nhiêu lần, song rốt cuộc vẫn không khế hợp với ý chỉ của Vân Môn. Một hôm hốt nhiên nói,” Đệ tử hiểu rồi!” Vân Môn nói, “ Tại sao không nói một cái gì siêu việt hơn?” Hương Lâm lại ở thêm ba năm nữa. Những điều Vân Môn giảng về đại cơ, phần lớn là đều vì Hương Lâm. Viễn thị giả ghi lại cả. Sau đó Hương Lâm trở về Thục. Lúc đầuThủy Tinh Cung Tự ở Đạo Giang, sau mới về chùa Hương Lâm ở Thanh Thành.

Trí Môn Tộ hòa thượng vốn người Chiết Giang, nghe nhiều về việc hóa đạo của Hương Lâm, mới đặc biệt đến Thục để ra mắt. Tộ là thầy của Tuyết Đậu. Vân Môn tuy rằng dạy vô số đệ tử, song lúc ấy luận về đạo hạnh thì phái của Hương Lâm là thịnh nhất. Sau này trở về Thục ở trong các tự viện suốt bốn mươi năm, đến tám mươi tuổi mới mất. Lúc bình sinh thường nói, “ Ta mãi đến năm bốn mươi tuổi mới thân tâm thuần nhất.”

Hương Lâm hay dạy chúng rằng, “Phàm lúc đi hành cước để tìm kiếm thiện tri thức, cần phải đem theo mắt để mà phân đen trắng, thấy nông sâu thì mới được. Trước tiên hết phải lập chí, giống như đức Thích Ca Mâu Ni lúc hãy còn ở nhân địa. Bất cứ một lời nói thốt ra hay một ý niệm khởi lên đều là để lập chí.”

Sau đó có ông tăng hỏi, “ Thế nào là một ngọn đèn trong phòng?” Hương Lâm nói, “Nếu như có ba người khăng khăng rằng nó là con rùa thì nó là con rùa.” Ông tăng lại hỏi, “ Thế nào là việc dưới áo nạp?” Hương Lâm nói, “ Lửa tháng chạp thiêu núi.” Xưa nay có rất nhiều câu trả lời cho câu hỏi “thế nào là ý nghĩa của Tổ Sư từ Tây Thiên qua?” Song chỉ có Hương Lâm ở đây là làm líu hết lưỡi thiên hạ. Không còn chỗ để cho các ông so đo lý luận. Ông tăng hỏi, “Thế nào là ý của Tổ Sư từ Tây thiên qua? Hương Lâm nói, “Ngồi lâu thấm mệt.” Có thể nói đây là lời vô vị, câu vô vị, chuyện vô vị, làm nghẹn miệng người ta khiến người ta không có chỗ mà thở. Nếu như thấy được là thấy được ngay, còn nếu không kỵ nhất là sinh kiến chấp.

Hương Lâm từng gặp các tay thành thạo đến hỏi, cho nên mới có kỹ thuật của Vân Môn cũng như thể điệu của “ba câu”. Người ta hay hiểu lầm nói rằng, “ Tổ sư từ Tây Thiên qua, chín năm ngồi ( Thiền) quay mặt vào vách. Phải chăng đó là ngồi lâu thấm mệt?” Nói vậy đâu có căn cứ gì đâu? Không thấy được rằng cổ nhân đa71c đại tự tại, chân dẫm lên đất thật, chẳng có nhiều tri kiến gì về Phật Pháp cả, chỉ tùy thời ứng dụng mà thôi. Câu nói rằng, “ Pháp tùy pháp hành, Pháp tràng tùy chỗ mà kiến lập.” Tuyết Đậu nhân gió mà thổi thêm lửa vào tụng của thầy ta.

TỤNG:

Một người hai người ngàn vạn người,

Tháo hết giây cương cởi hết yên.

Xoay trái xoay phải theo sau đến,

Tử Hồ muốn đánh Lưu Thiết Ma.

BÌNH: Tuyết Đậu trực tiếp như đá lửa như điện chớp, đẩy cả ra cho các ông thấy, song các ông chỉ có thể thấy được nếu như vừa nghe nêu lên đã hiểu ngay. Thầy ta quả là giòng dõi trong nhà Hương Lâm, cho nên mới có thể nói như thế được. Nếu như các ông có thể hiểu ngay như thế, quả là kỳ đặc hết sức. “ Một cái hai cái ngàn vạn cái, tháo hết giây cương gỡ hết yên.” Thanh thoát tự tại không bị sinh tử nhiễm, không bị trói buộc bởi sự phân biệtkiến chấp phàm thánh. Trên không có gì để ngưỡng vọng, dưới cắt đứt ngã chấp. Giống như thể Hương LâmTuyết Đậu,làm sao lại chỉ có ngàn vạn người? đnúg ra tì tất cả mọi người trong trời đất này đều như thế cả. Phật trước Phật sau cũng đều như thế.

Nếu như các ông định tìm chổ hiểu trong ngôn ngữ thì cũng giống như “ Tử Hồ muốn đánh Lưu Thiết Ma.” Kỳ thực, ngay khi các ông vừa đáp lại như thế là Tuyết Đậu đã đánh rồi. Tử Hồ tham học với Nam Tuyền, là người đồng thời với Triệu Châu và Đại Trùng Sâm. Lúc ấy Lưu Thiết Ma dựng thảo am dưới chân núi Qui Sơn. Người các nơi chẳng ai làm gì được. Một hôm Tử Hồ dương dương tự đắc đến hỏi, “Phải Lưu Thiết Ma đó chăng?” Lưu Thiết Ma nói, “ Không dám.” Tử Hồ nói, “ Xoay về bên phải hay xoay về bên trái?” Lưu Thiết Ma nói, “Hòa thượng chớ có điên đảo.” Chưa trả lời dứt Tử Hồ đã đánh.

Ông tăng kia hỏi, “Thế nào là ý của Tổ Sư từ Tây Thiên qua?” Hương Lâm đáp, “ Ngồi lâu thấm mệt.” Nếu các ông hiểu được như thế là các ông “ Xoay phải trái theo sau đến.” Thử nói xem, Tuyết Đậu tụng như vậy có nghĩa là gì?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11638)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11965)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11117)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11350)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12564)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10769)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17987)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11729)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9951)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10170)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12352)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15345)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11241)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14332)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12098)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15371)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12004)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12415)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11186)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12087)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10618)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12557)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13176)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14844)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12689)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16580)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19669)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13112)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12672)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12268)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11854)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10905)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13527)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11957)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11845)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11639)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12769)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14523)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12614)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13627)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12898)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9879)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18019)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11167)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9083)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12182)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13052)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10312)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12200)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15317)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12219)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11485)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14273)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19705)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14154)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24611)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10693)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant