Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tắc thứ Hai Mươi Hai: Con Rắn Mũi Rùa Của Tuyết Phong

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15346)
Tắc thứ Hai Mươi Hai: Con Rắn Mũi Rùa Của Tuyết Phong

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 3

TẮC THỨ HAI MƯƠI HAI

CON RẮN MŨI RÙA CỦA TUYẾT PHONG

 

THÙY: Lớn không bờ cõi, nhỏ như vi trần, nắm buông không phải là gì khác, cuộn mở đều ở nơi mình. Nếu như muốn cởi bỏ chỗ trói buộc dính dấp, ắt phải cắt đứt hết tông tích (của tâm hành) nuốt hết âm thanh (của ngôn ngữ). Mọi người thấy rõ bờ kia, ai nấy lừng lững ngàn trượng. Thử nói xem đó là cảnh giới của ai? Xin nêu lên xem.

CỬ: Tuyết Phong dạy chúng rằng: Nam sơn có một con rắn mũi rùa, các ông cần phải coi chừng. Trường Khánh nói, “Hôm nay trong đại sảnh có người tang thân thất mạng.” Có ông tăng thuật lại cho Huyền sa, Huyền Sa nói, “Phải là Lăng huynh thì nới nói như thế được tuy nhiên tôi thì lại không như thế.” Ông tăng hỏi, “Hòa thượng thì như thế nào?” Huyền Sa nói, “Cần gì phải Nam Sơn.” Vân Môn thì chỉ ném gậy xuống trước mặt Tuyết Phong làm ra vẻ sợ sệt.[3]

BÌNH: Nếu như các ông muốn trải nó ra thì cứ việc trải nó ra, nếu như các ông muốn đả phá thì cứ việc đã phá[4]. Tuyết Phong cùng đi với Nham Đầu và Khâm Sơn. Sư đến Đầu Tử ba lần lên động Sơn chín lần. Sau đến tham vấn Đức Sơn, lúc ấy mới đập lủng được đáy thùng đen.

Một hôm cùng đi với Nham Đầu đến gặp Khâm Sơn. Đi đến một khách điềm trên Ngao Sơn thì bị kẹt tuyết. Nham Đầu ngày nào cũng chỉ ngủ trong khi Tuyết Phong lúc nào cũng ngồi thiền. Nham Đầu hét, “Ngủ một chút xem, ngày nào ông cũng ngồi thiền trên giường trông như thể một ngôi tượng đất. Sau này thế nào ông cũng làm loạn hoặc con cái thiên hạ.” Tuyết Phong tự chỉ vào ngực nói, “Chỗ này của tôi chưa an, tôi không dám tự lừa dối mình.” Nham Đầu nói, “Tôi cứ cho là ông sau này thế nào cũng lên đỉnh cao xây thảo amtruyền đạo lớn, chẳng dè ông lại vẫn còn ăn nói như thế.” Tuyết Phong nói, “Tôi quả tình chưa an tâm thật.” Nham Đầu nói, “nếu ông như thế thật, thì cứ đem hết từng kiến giải của ông ra, chỗ nào đúng tôi sẽ vì ông mà chứng minh, chỗ nào không đúng tôi sẽ trừ khử đi cho ông.”

Tuyết Phong bèn thuật lại, “Lúc tôi gặp Diêm Quan thượng đường nói về ý nghĩa của sắc và không, tôi có đạt được chút hiểu biết.” Nham Đầu nói, “Ba mươi năm tới đây đừng bao giờ đề cập đến chuyện này nữa.” Tuyết Phong lại nói, “Lúc nghe bài tụng qua sông của Động Sơn tôi cũng đạt được chút hiểu biết.” Nham Đầu nói, “ nếu thế thì ông không còn tự cứu mình được nữa.” Tuyết Phong nói, “Sau này lúc đến gặp Đức Sơn tôi hỏi, “Kẻ học này có phần gì trong việc của tông môn từ xưa đến nay không? Đức Sơn đánh cho một gậy và nói, “ Cái gì?” Lúc ấy tôi giống như thể cái thùng đen bị đập lủng đáy.” Nham Đầu bèn hét và nói rằng, “Ông từng nghe nói rằng cái gì từ bên ngoài vào thì không phải là gia bảo trong nhà chứ?” Tuyết Phong nói, “Vậy thì từ rày về sau tôi phải làm như thế nào mới đúng chứ?” Nham Đầu nói “ Sau này nếu ông muốn truyền bá đạo lớn, thì nhất nhất đều phải từ hung khâm ông trôi chảy ra để che kín cả trời đất cho tôi.” Nghe lời nói ấy Tuyết Phong đại ngộ. Bèn lễ lạy và huyên thuyên kêu lên, “ Hôm nay tôi đắc đạo trên Ngao Sơn, hôm nay tôi đắc đạo trên Ngao Sơn.”

Sau đó trở về Mân sống trên Tượng Cốt Sơn, tự để lại bài tụng rằng, “Đời người bỗng nhiên thật ngắn ngủi, phù thế làm sao nương náu lâu. Xuống núi mới được ba mươi hai, về Mân thoắt đã ngoài bốn mươi. Lỗi người chẳng cần nêu lên mãi, mình sai cần phải trừ hết thôi. Trình các tử y tăng đầy triều, Diêm Vương chẳng sợ màu áo nâu.”

Thường thượng đường dạy chúng rằng, “ Nhất nhất đều bao trùm trời đất.”[5] Sư chẳng nói huyền nói diệu, cũng chẳng nói tâm nói tính. Đột nhiên độc lộ, như khối lửa lớn, đến gần là nó đốt cháy mặt người ta. Giống như Thái A Kiếm đụng vào là tang thân thất mệnh. Nếu như vướng trong tư tưởng, đình các phương tiện, ắt là sẽ lạc hướng.

Bách Trượng hỏi Hoàng Bá, “ Từ đâu đến?” Hoàng Bá nói, “ Từ dưới chân núi Đại Hùng hái nấm mà đến đây.” Bách Trượng hỏi, “ Có thấy cọp không?” Hoàng Bá bèn giả tiếng cọp gầm. Bách Trượng bèn nhặt búa lên làm thế như thể đang chém. Hoàng Bá bèn đánh Bách Trượng một bạt tai. Bách Trượng bèn cười hì hì rồi trở về bước lên giảng tòa nói với đại chúng rằng, “ Trên núi Đại Hùng có một con cọp, các ông phải coi chừng,hôm nay chính lão tăng bị nó cắn một miếng.”

Triệu Châu mỗi khi gặp ông tăng nào đó là hỏi, “Đã từng đến đây chưa?’ Bất chấp ông tăng kia nói đã từng hay chưa từng Triệu Châu đều nói, “Đi uống trà đi.” Viên chủ nói, “ Hòa thượng hay hỏi mấy ông tăng đã từng đến đây chưa rồi lại bảo đi uống trà đi. Dám hỏi ý chỉ như thế nào?’ Triệu Châu nói, “ Viện chủ!” Viện chủ đáp, “ Vâng”. Triệu Chân nói, “Đi uống trà đi.”

Dưới cổng của Tử Hồ có một tấm bảng, trên bảng có viết, “ Tử Hồ có một con chó, trên thì lấy đầu thiên hạ, giữa thì lấy bụng thiên hạ, dưới thì lấy chân thiên hạ. Tần ngần là tang thân thất mạng ngay.” Có ai vừa mới đến vừa trông thấy Sư, Sư đã hét nói, “ Coi chừng chó!” Ông tăng vừa quay đầu nhìn, Sư đã trở về phương trượng.

(Những điều trên) giống y như Tuyết Phong nói, “ Nam Sơn có một con rắn mũi rùa, các ông phải cẩn thận coi chừng.” Đúng vào lúc ấy các ông phải đối đáp như thế nào? Không dẫm vào vết cũ các ông thử nói tôi nghe xem. Đến chỗ này rồi phải hiểu các câu đặc biệt thì mới được. Khi ấy lúc tất cả các công án nêu lên, các ông đã hiểu ngay cốt ý của chúng. Thử nhìn cách dạy chúng của Tuyết Phong, chẳng hề nói gì về chỗ hiểu và chỗ dành cho các ông, các ông có thể lấy ý thức cảm quan ra mà so đo được chăng?

Họ (Trường Khánh, Huyền SaVân Môn) là con cháu trong nhà của Tuyết Phong, cho nên mới ăn nói được một cách khế hợp như thế. Cho nên cổ nhân mới nói, “Nghe lời phải hiểu nguồn, đừng tự lập qui củ.” Lời phải có chỗ ngoại lệ, câu phải có khả năng thấu quan. Nếu như ngôn ngữ của các ông mà không ra khỏi được các hang động (của chấp trước) thì các ông sẽ bị rơi vào một biển chất độc. Tuyết Phong dạy chúng như thế có thể gọi là lời nói vô vị làm nghẹn miệng thiên hạ Trường Khánh và Huyền Sa đều là người trong nhà của Tuyết Phong, cho nên họ mối hiểu khi Tuyết Phong ăn nói như thế.

Còn như Tuyết Phong nói, “ Nam Sơn có con rắn mũi rùa,” các ông có hiểu ý nghĩa của câu nói ấy không? Đến chỗ này rồi các ông phải có đôi mắt thông suốt khắp các phương mới được. Há không nghe Chân tĩnh có bài tụng rằng, “Đánh trống khảy tỳ bà, tương phùng hai chuyên gia. Vân Môn biết xướng họa, Trường Khánh lại khơi ra. Cổ khúc không âm vận, Nam Sơn rắn mũi rùa. Ai hiểu ra ý này, đích thị có Huyền Sa.”

Khi Trường Khánh đối đáp như thế, thử nói xem ý của thầy ta như thế nào? Đến mức độ này thì phải như đá lửa điện chớp mới có thể nắm được (vấn đề). Nếu như còn có chút tơ hào (chấp trước) nào chưa trừ khử được, các ông vẫn chưa thể nào nắm được. Chí đáng tiếc là nhiều người thường đưa ra kiến giải thiên lệch về lời nói của Trường Khánh, bảo rằng, “ trong sảnh đường vừa nghe thấy cái gì lập tức tang thân mạng.” Có người nói, “ Vốn không hề có gì cả, dù chỉ trên mặt trống mà nói lời này cũng khiến cho thiên hạ sinh nghi. Thiên hạ nghe thầy ta nói,” Nam sơn có con rắn mũi rùa. lập tức sinh nghi.” Nếu như hiểu như thế thì đâu có nhằm nhò gì. Chỉ loay hoay mãi với ngôn ngữ kia mà thôi. Song nếu không hiểu như thế thì phải như thế nào?

Sau đó có ông tăng thuật lại cho Huyền Sa, Huyền Sa nói, “ Phải là Lăng huynh thì mới (nói) như thế được, Tuy nhiên tôi lại chẳng như thế.” Ông tăng hỏi, “ Hòa thượng thì như thế nào?” Huyền Sa nói, “Cần gì phải Nam Sơn.” Nhìn xem trong lời nói của Huyền Sa đã có chỗ xuất thân. Cho nên thầy ta mới nói, “ Cần gì phải Nam Sơn?” Nếu như không phải là Huyền Sa hẳn là hết sức khó mà đối đáp. Lúc Tuyết Phong nói, “ Nam Sơn có con rắn mũi rùa.” Thử nói xem, ở chỗ nào? Đến chỗ này rồi phải là người hướng thượng mới có thể hiểu được lối nói chuyện ấy. Cổ nhân nói, “ Câu cá trên thuyền, Tạ Tam Lang không thích Nam Sơn, mà con rắn mũi rùa lại đến.”

Vân Môn ném gậy xuống trước mặt Tuyết Phong làm ra vẻ sợ hãi. Vân Môn có khả năng bắt rắn, cũng như không phạm phải mũi nhọn, sáng cũng được mà tối cũng được.Thầy ta bình thường vì người khác như thể múa Thái A Kiếm, có lúc vút qua mày mắt người ta, có lúc bay ra ngoài ba ngàn dặm mà lấy đầu người ta. Vân Môn ném gậy xuống làm ra vẻ sợ hãi, phải chăng làm trò ma quỉ? Phải chăng thầy ta cũng tan thân mất mạng. Các bậc tông sư thành thạo không bao giờ vướng mắc mãi với một lời hay một câu cà. Tuyết Đậu chỉ vì thích cái khế hợp của Vân Môn với ý chỉ của Tuyết Phong cho nên mới tụng rằng:

TỤNG

Tượng cốt vách cao người không đến,

Kẻ đến phải là tay bắt rắn.

Thầy Lăng thầy Bị làm gì được?

Tang thân thất mạng đã bao người.

Thiều Dương[6] biết,

Lại vạch cỏ,

Nam Bắc Đông Tây biết chỗ nào.

Hốt nhiên lại tung chiếc gậy ra,

Ném trưóc Tuyết Phong há hốc miệng.

Miệng há hốc hề giống điện chớp,

Nhíu đôi lông mày còn không thấy.

Giờ đây ẩn trên đỉnh Nhũ Phong,

Kẻ đến từng người thấy phương tiện.

Sư lớn tiếng quát rằng, “nhìn dưới chân!”

BÌNH: “Tượng cốt vách cao người không đến, kẻ đến là tay bắt rắn.” Trên Tuyết Phong Sơn có vách Tượng Cốt. Tuyết Phongcơ phong cao lừng lững, hiếm có người đạt đến được. Tuyết Đậu là người trong nhà (của Tuyết Phong) cùng lông cùng giống. Đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu, cần các tay thanh thạo chứng minh cho nhau.

Tuy nhiên con rắn mũi rùa này vẫn rất là khó bắt.Phải biết cách bắt mới được, nếu không thể nào cũng bị rắn cắn. Ngũ Tổ nói, “Đối với con rắn Mũi rùa này cần phải có cái khả năng đừng để cho tay chân bị cắn mới được. Nhằm ngay gáy nó mà nắm một cái, thì các ông mới có thể nắm tay cùng đi với lão tăng được.

Trường Khánh và Huyền Sa có khả năng này. Tuyết Đậu nói rằng Thầy Lăng thầy Bị làm gì được, đa số thiên hạ bảo rằng Trường Khánh và Huyền Sa không làm gì được, cho nên Tuyết Đậu mói ca ngợi Vân Môn. May mà chẳng có gì là đúng cả. Họ đâu có biết rằng trong ba người này căn cơ không có chỗ đắc nhất, chỉ có chỗ thân sơ mà thôi, tôi chỉ xin hỏi chư vị, chỗ nào là chỗ mà thầy Lăng và thầy Bị không làm gì được?

“Tang thân mất mạng bao nhiêu người.” Đây là tụng câu nói của Trường Khánh rằng, “Hôm nay trong sảnh đường có người tang thân thất mạng.” Đến chỗ này phải có tài bắt rắn tuyệt hảo mới được. Tuyết Đậu xuất phát từ dòng của Vân Môn, chonên mới gạt phăng tất cả chỉ giữ lại một mình Vân Môn. Tuyết Đậu nói, “ Thiều Dương biết, lại vạch cỏ.” Bởi vì Vân Môn biết cốt ý của lời nói của Tuyết Phong rằng, “Nam Sơn có con rắn mũi rùa” cho nên mới “ lại vạch cỏ” nữa.

Tuyết Đậu tụng tới đây càng có chỗ vi diệu hơn nữa, cho nên nói, “ Nam bắc đông tây biết chỗ nào.” Thử nói xem ở chỗ nào?” Hốt nhiên lại tung chiếc gậy ra.” Nguyên lai chỉ ở nơi đây. Song các ông không thể cứ vướng nơi chiếc gậy mãi. Vân Môn ném gậy xuống trước mặt Tuyết Phong rồi làm ra vẻ sợ hãi. Vân Môn dùng gậy làm con rắn mũi rùa. Có lần Vân Môn nói, “ gậy hóa thành rồng, nuốt trọn cả càn khôn. Sơn hà đại địa biết tìm đâu ra lại đây?” Chỉ là một chiếc gậy mà có lúc làm rồng có lúc làm rắn. Tại sao lại như thế? Đến chỗ này rồi nới có thể hiểu được lời nói của cổ nhân rằng “ Tâm tùy vạn cảnh chuyễn, nhuyễn xứ lại thâm sâu.”

Tụng rằng, “ Ném trước Tuyết Phong há hốc miệng, Miệng há hốc hề giống điện chớp.” Tuyết Đậu có thừa tài, dơ con rắn độc của Vân Môn lên mà nói rằng “ miệng há hốc hề giống điện chớp.” Nếu như các ông toan nghị luận là lập tức tang thân thất mạng. “ Nhíu đôi lông mày không còn thấy.” Nó đi về đâu rồi?

Tuyết Đậu tụng xong phải đến chỗ sống mà giúp người. Nhặt con rắn của Tuyết Phong mà tự dơ lên tự chơi giỡn, tha hồtùy cơ sát hoạt. Các ông muốn thấy không? Tuyết Đậu nói, “ Giờ đây ẩn trên đỉnh Nhũ Phong.” Nhũ Phong chính là tên của núi Tuyết Đậu. Tuyết Đậu có bài tụng rằng, “ Cửa đá nhìn quanh trời đất hẹp, hư không nào để mây trắng đâu.” Tuy rằng Trường Khánh, Huyền SaVân Môn có thể bắt được rắn, song họ chẳng thấy rắn. Tuyết Đậu nói, “ hiện giờ ẩn trên đỉnh Như Phong, kẻ đến từng người thấy phương tiện.” Tuyết Đậu lại tiến thêm vào chỗ uyên áo của thầy, không nói “ dùng đi” mà lại lớn tiếng hét lên rằng, “ Nhìn dưới chân!” Từ xưa đến nay có bao nhiêu người chơi dỡn được với rắn? Thử nói xem rắn đã từng cắn ai chưa? Sư (Viên Ngộ) bèn đánh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15759)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11057)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53622)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12966)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16519)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15391)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19152)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19921)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15547)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15340)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15140)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20325)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23938)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15484)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13022)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20092)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13268)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29015)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11694)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18274)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16640)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13229)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12796)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13244)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12966)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12859)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13000)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13536)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11705)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14225)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17720)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22576)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13439)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14325)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105735)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14598)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19769)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38414)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15515)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34668)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16048)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11322)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15642)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14019)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12824)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13698)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12490)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19369)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27001)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13107)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13461)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21584)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17964)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21870)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14204)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16068)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16128)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19095)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24771)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant