Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tắc thứ Hai Mươi Ba: Diệu Phong Đỉnh Của Bảo Phúc

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15527)
Tắc thứ Hai Mươi Ba: Diệu Phong Đỉnh Của Bảo Phúc

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 3

TẮC THỨ HAI MƯƠI BA

DIỆU PHONG ĐỈNH CỦA BẢO PHÚC

 

THÙY: Ngọc thì dùng lửa để thử, vàng thì dùng đá để thử, kiếm thì dùng lông để thử, nước thì dùng gậy để thử. Còn như trong môn hạ của các nạp tăng, một ngôn một cú, một cơ một cảnh, một xuất một nhập, một gặp một đối, phải thấy cho được chỗ nông sâu, phải thấy cho được chỗ tiến lùi. Thử nói xem, phải dùng gì để thử đây? Xin nêu lên xem.

CỬ: Bảo Phúc và Trường Khánh đi chơi núi, Bảo Phúc lấy tay chỉ nói, “Đây chính là Diệu Phong Đỉnh.” Trường Khánh nói, “Đúng thế, song đáng tiếc thật!” Tuyết Đậu phê bình rằng, “ Hôm nay đi chơi núi với mấy tay kia để làm gì?” Rồi lại nói thêm, “Trăm ngàn năm sau không nói là không có, chỉ là ít mà thôi.” Sau có người thuật lại cho Kính Thanh. Kính Thanh nói, “ Nếu như không nhờ Tôn công (Bảo Phúc) thì hẳn chúng ta đã thấy đầu lâu đầy đồng rồi.”

BÌNH: Bảo Phúc, Trường Khánh, Kính Thanh đều là những người truyền thừa của Tuyết Phong. Ba người này đồng kiến đồng văn đồng bắc đồng chứng đồng niêm đồng dụng. Một xuất một nhập cùng nhau đưa đối. Bởi vì họ là người của cùng một dòng, cho nên một người vừa nêu lên một điều gì là những người kia đã hiểu ngay ý hướng. Trong chúng hội của Tuyết Phong, thường là ba người này tham nhập vào các vấn đáp. Cổ nhân hành trụ tọa ngọa đều niệm nơi đạo này, cho nên (công án) vừa được nêu lên là họ đã hiểu ngay ý nghĩa.

Một hôm đi chơi núi, Bảo Phúc lấy tay chỉ nói, “Đây chính là Diệu Phong Đỉnh.” Những người học Thiền ngày nay mà bị hỏi như thế, chỉ biết nhăn mặt. Song ngày nay mà bị hỏi như thế, chỉ biết nhăn mặt.Song ở đây người bị hỏi lại là Trường Khánh. Các ông thử nói xem, Bảo Phúc nói như thế để làm gì? Cổ nhân làm như thế là để thử xem người khác có mắt hay không. Trường Khánh là người trong nha cho nên mới hiểu ý hướng. Do đó mới đáp rằng, “Đúng thế, song đáng tiếc thật!” Nhưng mà các ông thử nói xem, Trường Khánh nói như thế là có ý thế nào? Không thể lúc nào cũng như thế được. (Có nhiều kẻ) Giống như thế thật, song rất ít người đạt đến mức nhàn nhã vô sự được. Nhưng mà Trường Khánh quả thực hiểu thấu Bảo Phúc.

Tuyết Đậu phê bình rằng, “ Hôm nay đi chơi núi với mấy tay kia để làm gì?” Thử nói xem, ý nghĩa ở chỗ nào? Tuyết Đậu lại nói, “Trăm ngàn năm sau không nói là không có, mà chỉ là có ít thôi.” Tuyết Đậu biết chỉ vào lòng mình. Giống y như Hoàng Bá nói, “Tôi không nói là không có Thiền, mà chỉ bảo là không có thầy mà thôi.” Tuyết Đậu nói như thế, quả thực là nguy hiểm vời vợi. Song nếu không đồng thanh tương ứng như thế thì làm sao mà có thể lừng lững kỳ đặc như vậy được? Đây gọi là lời bình, ở cả vào hai bên, song tuy ở cả hai bên mà không trụ ở bên nào cả.

Sau có người thuật lại cho Kính Thanh. Kính Thanh nói, “ Nếu không nhờ Tôn Công thì hẳn chúng ta đã thấy đầu lâu đầy đồng rồi.” Tôn là tên tục của Trường Khánh. Há không nghe chuyện có ông tăng hỏi Triệu Châu, “Thế nào là diệu cô phong đỉnh?” Triệu Châu nói, “lão tăng không đáp?” Triệu Châu nói, “Nếu tôi trả lời ông, chỉ sợ ông sẽ ngã xuống ngay trên mặt đất bằng này.”

Trong kinh sách có nói rằng có vị tỳ khưu Đức Vân ở trên Diệu Cô Phong Đỉnh không bao giờ xuống. Thiện Tài[7] đến tham kiến mãi bẩy ngày mà không được gặp. Một hôm lại gặp nhau ở một đỉnh núi khác. Sau khi gặp rồi Đức Vân dạy cho Thiện Tài rằng tam thế chỉ là nhất niệm, trí huệ của tất cả chư Phật, quang minh phổ hiện nơi các pháp môn. đức Vân đã không bao giờ hạ sơn, tại sao lại gặp Thiện Tài trên một đỉnh khác? Nếu như các ông bảo rằng Đức Vân hạ sơn, rõ ràng trong kinh lại nói rằng Đức Vân chưa từng bao giờ hạ sơn, luôn luôn ở trên Diệu Cô Phong đỉnh. Đến đây rồi thì (thử nói xem rốt cuộc) Đức Vân và Thiện Tài ở đâu?

Sau đó Lý Trưởng Giả [8] bày vẽ thêm rắc rối thật hay, nói rằng, “ Diệu Cô Phong Đỉnh chính là pháp môn nhất vị bình đẳng. Nhất nhất đều thật, nhất nhất đều toàn. Độc lộ nơi vô đắc vô thất vô thị vô phi. Cho nên Thiện Tài mới không thấy.” Một khi đã đạt đến chỗ khế hợp với ( Pháp) tính rồi thì cũng giống như mắt không tự thấy, tai không tự nghe, ngón tay không tự chạm, lửa không tự đốt, dao không tự cắt, nước không tự rửa. Đến đây các ông hẳn đã thấy trong kinh có rất nhiều chỗ từ bi vì người. Cho nên mới bày ra một con đường, cho nên mới lập ra vị chủ vị khách, lập cơ cảnh, lập vấn lập đáp trong sự thật công ước[9]. Cho nên kinh mới nói, “ Chư Phật chưa từng bao giờ xuất thế, cũng chưa từng bao giờ nhập niết bàn. Tất cả các việc ấy là phương tiện (mà chư Phật bày ra) để độ chúng sinh mà thôi”.

Thử nói xem, rốt cuộc phải làm thế nào để tránh cho Kính Thanh và Tuyết Đậu khỏi nói như thế? Nếu như lúc ấy không thế vỗ tay, tương ứng thì hẳn đã “ thấy đầu lâu đầy đồng” rồi. Kính Thanh chứng được như thế, rồi thì cả hai đều tụng như thế. Sau đó, Tuyết Đậu tụng còn hiển hách hơn nữa:

TỤNG

Trên đỉnh Diệu Phong cỏ rậm rạp,

Nêu ra rõ ràng để cho ai?

Không nhờ Tôn công phân biện kỷ,

Đầu lâu đầy đồng mấy ai hay?

BÌNH: “Trên đỉnh Diệu Phong cỏ rậm rạp.” Mò mẫm trong cỏ mãi biết đến lúc nào mới dứt?” Nêu ra rõ ràng để cho ai?’ Chỗ nào là chỗ rõ ràng? Đây là để tụng câunói của Bảo Phúc, “Đây chính là Diệu Cô Phong Đỉnh”. “Không nhờ Tôn công phân biệt kỹ.” Tôn công thấy được sự thật gì mà lại nói rằng, “Đúng thế, song đáng tiếc thật!” Còn như “Đầu lâu đầy đồng mấy ai hay?” Các ông có biết không? Mù!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12486)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14087)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10837)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10509)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11162)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11971)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13101)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13606)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33622)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11309)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12884)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13025)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11592)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17853)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11395)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11811)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11463)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18946)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12512)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11301)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13117)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15727)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11789)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11673)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12731)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12609)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13924)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12955)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12901)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13262)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12736)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12659)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11704)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11692)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12301)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12367)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19805)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11931)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11972)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16862)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12654)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15044)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16084)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12853)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12203)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11896)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11909)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13131)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16487)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13213)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12461)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11790)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19818)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11134)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11236)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10387)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11067)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10945)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10009)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11723)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant