Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Hai Mươi Lăm: Liên Hoa Trụ Trượng

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15583)
Tắc thứ Hai Mươi Lăm: Liên Hoa Trụ Trượng

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 3

TẮC THỨ HAI MƯƠI LĂM

LIÊN HOA TRỤ TRƯỢNG

 

THÙY: Cơ không rời vị, rơi vào biển độc. Lời không kinh quần, vướng vào tầm thường. Hốt nhiên như ánh đá lửa phân biệt được tăng tục. Biện được sát hoạt trong ánh điện chớp, mới có thể tề bình mười phương, sừng sững như núi cao ngàn thước. Biết đó là thời tiết gì chăng? Xin nêu lên thử xem.

CỪ: Liên Hoa Phong Am Chủ dơ gậy lên dạy chúng rằng, “Cổ nhân đã đến đây, tại sao không chịu ở lại?” Trong chúng không ai nói gì, Am Chủ mới tự trả lời rằng, “Bởi vì họ không đắc lực trên đường.” Rồi lại nói tiếp, “Rốt cuộc như thế nào?” Rồi lại tự trả lời, “Vác gậy trên vai chẳng màng ai, đi thẳng lên trăm ngàn đỉnh cao.”

BÌNH: Các ông có phán xét được Liên Hoa Phong Am Chủ chăng? Gót chân của thầy ta vẫn chưa chấm đất. Vào đầu thời đại của chúng ta (nhà Tống) thầy ta dựng am trên đỉnh Liên Hoa trên núi Thiên Thai. Các bậc cổ nhân sau khi đắc đạo, thường ở trong lều tranh hang đá, nấu rau dãi trong nồi mẻ mà sống qua ngày. Không cầu danh lợi, phóng khoáng tùy duyên. (Thỉnh thoảng) dạy một lời then chốt, chỉ vì muốn đền ơn Phật, Tổ và truyền tâm ấn của Phật.

Mỗi khi thấy có ông tăng nào đến, Am Chủ thường dơ gậy lên nói, “ Cổ nhân đã đến đây, tại sao không chịu ở lại?.Trước sau hơn hai mươi năm mà rốt cuộc chưa từng có một người nào trả lời được. Chỉ một câu hỏi này thôi mà có cả quyền thực, chiếu dụng. Nếu như các ông đã biết cái bẫy của thầy ta, chẳng cần phải nắm vào làm gì. Nhưng mà thử nói xem, tại sao suốt hơn hai mươi năm mà thầy ta lại chỉ hỏi mỗi câu hỏi này? Đã là hành vi của bậc tong sư, tại sao lại chỉ nắm giữa một phía? nếu như các ông hiểu được điều này, đương nhiên sẽ không còn đi vào lối của tình trần.

Suốt trong hai mươi năm ấy có biết bao nhiêu người trình bày biện bạch, đưa ra kiến giải, giở hết tài nghệ của mình ra. Thí như có người nói được đi nữa, cũng chẳng đạt đến được chỗ cực tắc của Am Chủ. Hà huống tuy rằng việc này không ở nơi ngôn cú, song nếu khôngngôn cú thì làm sao phân biệt được? Há không nghe nói, “Đạo vốn vô ngôn, nhân ngôn hiển đạo” sao?Cho nên chỗ chính yếu để thử thách người khác là họ vừa mở miệng mình đã biết ngay âm thanh.

Cổ nhân dạy một câu nửa câu chẳng có ý gì khác, chỉ muốn xem các ông có biết có hay không mà thôi. Am Chủ muốn xem các ông có biết có hay không mà thôi. Am Chủ thấy người khác không hiểu cho nên mới tự trả lời rằng, “ Bởi vì nó không đắc lực trên đường.” Nhìn xem thầy ta nói được một cách khế cơ khế lý làm sao! Có bao giờ lạc mất tong chỉ đâu? Cổ nhân nói, “Nghe lời phải hiểu tông, đừng tự lập qui củ.” Người ngày nay vừa chạm phải đã nghĩ là mình đắc. Đắc thì đắc, song tại sao vẫn cứ một đầu lúng túng. Khi đến trước mặt một chuyên gia, thường có ba lời căn bản: “ấn không , ấn bùn , ấn nước,” để thử thách họ.Lúc ấy mới thấy rằng cũng giống như muốn nhét cọc vuông vào lỗ tròn, không thể nào mà vào được.

Đến chỗ này rồi, kiếm đâu ra được một người đồng đắc đồng chứng đây? Nếu như gặp được người biết là có, thì cứ mở rộng long mà giải bày. Có gì bất khả đâu? Nếu như không gặp được người, thì cứ giữ kín trong lòng. Tôi xin hỏi các ông, gậy là vật mà các ông tăng thường dung, tại sao Am Chủ lại nói là nó không đắc lực trên đường? Với lại cổ nhân đã đến đây tại sao không chịu ở lại? Bụi vàng tuy thực là quí song lúc nó bay vào mắt lại làm người ta mù.

Thạch Thất Thiện Đạo Hòa Thượng lúc bị nạn (khi Phật Giáo bị đàn áp vào năm 845) thường đưa gậy ra dạy chúng rằng, “Quá khứ chư Phật cũng thế, vị lai chư Phật cũng thế, hiện tiền chư Phật cũng thế.”

Một hôm trước tăng đường Tuyết Phong dơ gậy lên dạy chúng rằng.Cái này chỉ cho những người trung và hạ căn mà thôi. Lúc ấy có ông tăng bước ra hỏi, “Hốt nhiên gặp người thuộc căn cơ thượng thượng đến thì như thế nào?” Tuyết Phong nhặt gậy lên rồi bỉ đi. Vân Môn nói, “Tôi thì không giống như Tuyết Phong nhặt gậy lên rồi bỏ đi. Vân Môn nói, “ Tôi thì không giống như Tuyết Phong trong vấn đề dẹp tan những lúng túng.” Có ông tăng hỏi, “Chưa rõ hòa thượng thì như thế nào?” Vân Môn bèn đánh ông ta.

Phàm việc tham vấn, chẳng có gì nhiều nhặn cả.Chỉ vì các ông bên ngoài thì thấy có Phật để cầu, dưới thì thấy có chúng sinh để độ. Cần phải một lúc nhổ ra hết, sau đó trong suốt mười hai giờ, đi đứng nằm ngồi gì đều họp thành một thể. Lúc ấy tuy ở trên đầu một sợi lông mà vẫn thấy khoảng khoát như đại thiên thế giới, dù ở trong vạc dầu sôi mà vẫn như thể nơi an lạc quốc độ. Tuy ở giữa thất trân bát bảo mà vẫn tựa như ở trong lều tranh mái cỏ. Nếu như các ông là các tay chuyên gia thong suốt, các ông có thể đạt đến chỗ thật của cổ nhân một cách tự nhiên mà chẳng phí chút sức lực nào.

Am Chủ thấy không ai với tới được chỗ thâm sâu của mình cho nên mới lại nói, “ Rốt cuộc thì như thế nào?” Thiên hạ lại vẫn chẳng làm gì được, cho nên lại nói, “ Vác gậy trên vai chẳng màng ai, đi thẳng lên trăm ngàn đỉnh cao.” Thế nào là ý nghĩa của câu nói này? Thử nói xem, Am Chủ chỉ chỗ của thầy ta? Quả thật rằng có mắt trong lời, ngoài lời có ý. Tự đứng lên tự ngã xuống, tự buông bỏ tự nắm giữ.

Há không nghe chuyện Nghiêm Dương Tôn Giả trên đường gặp một ông tăng. Nghiêm Dương dơ gậy lên hỏi, “ Cái gì đây?” Ông tăng nói, “không biết.” Nghiêm Dương nói, “ Có mỗi một cái gậy mà ông cũng không biết!” Nghiêm Dương lại cầm gậy trên mặt đất nói, “ Biết chứ?” Ông tăng nói, “ Không biết.” Nghiêm Dương nói, “Cái lỗ trên mặt đất mà ông cũng không biết?” Nghiêm Dương lại gánh gậy lên vai, nói, “Hiểu không?” Ông tăng nói, “Không hiểu.” Nghiêm Dương nói, “Vác gậy lên vai chẳng màng ai, đi thẳng lên trăm ngàn đỉnh cao.” Cổ nhân đã đến đây , tại sao không chịu ở lại?”

Tuyết Đậu có bài tụng rằng, “ Ai kẻ gặp cơ duyên? Nêu lên không lừa dối. Người như thế thật hiếm, xô ngã cả đỉnh cao. Nấu chảy cả huyền vi, trùng quan đã mở rộng. Chuyên gia chưa cùng về, ngọc thỏ chợt tròn chợt khuyết.Kim ô bay mà không bay, lão Lô không biết đi về đâu, mây trắng nước trôi đều lưu luyến.”

Tại sao sư núi tôi lại nói, “ Sau đầu thấy má, đừng nên qua lại”? Vừa toan so đo là các ông đã vướng vấp trong núi tối hang ma rồi. Nếu như các ông thấy được suốt đủ được lòng tin thì ngàn người vạn người không chi phối mà cũng chẳng làm gì được các ông. Bị dồn này đẫy, các ông sẽ biết sát hoạt một cách tự nhiên. Tuyết Đậu hiểu ý của Am Chủ khi thầy ta nói, “Đi thằng lên trăm ngàn đỉnh cao.” Mới bắt đầu làm bài tụng. Nếu như các ông muốn biết ý hướng (của công án) xin xem tụng của Tuyết Đậu.

TỤNG

Bụi trần trong mắt đất trong tai,

Trăm ngàn đỉnh cao không chịu ở.

Nước chảy hoa trôi quá bang bạc,

Nhướng mắt lên nhìn đi về đâu?

BÌNH: Tuyết Đậu tụng hết sức là tuyệt, có chỗ chuyển than và không nệ vào một góc. Lập tức thầy ta nói, “ Bụi trần trong mắt đất trong tai.” Câu này tụng Liên Hoa Phong Am Chủ. Các nạp tăng đến chỗ này, trên không có gì để kính ngưỡng, dưới cắt đứt hết tự ngã, bất cứ lúc nào cũng như ngớ như ngẫn. Há không nghe Nam Tuyền nói, “ Những người học đạo mà như si độn thì thật là khó kiếm.” Pháp Đăng nói, “ Ai hiểu được ý này, khiến tôi nhớ Nam Tuyền.” Nam Tuyền lại nói, “ Bảy trăm cao tăng đều là những người hiểu Phật pháp. Chỉ có Lô hành giả là không hiểu Phật pháp, mà chỉ hiểu đạo, cho nên mới được y bát của (Ngũ Tổ)”. Thử nói xem Phật pháp và đạo cách nhau bao xa?

Tuyết Đậu nêu rằng, “ Cát không vào được mắt, nước không vào được tai. Thảng hoặc có một người như thế, có đủ đức tin, nắm giữ chắc chắn, kẻ ấy hẳn không bị người khác lừa dối. Ngôn giáo của Phật với Tổ lúc ấy chỉ còn là những tiếng huyên náo vô nghĩa mà thôi. Xin mời các ông treo cao bát và túi, bẻ gãy gậy đi, rồi làm các vô sự đạo nhân mà thôi.” Tuyết Đậu cũng nói, “ Mắt chứa được núi Tu Di, tai chứa được nước biển lớn. Có một loại người, chịu sự thương lượng của người khác. Ngôn giáo của Tổ, Phật lúc ấy như thể rồng gặp nước cọp dựa núi. Người ấy nên nhặt bát và túi vác gậy trên vai. kẻ ấy cũng là một vô sư đạo nhân.” Tuyết Đậu lại nói,” Như thế cũng không được mà không như thế cũng không được. Rốt cuộc chẳng có gì là nhằm nhò cả.”

Trong ba loại vô sự đạo nhân kia, nếu như chọn một làm thầy, thì phải là cái người đúc sắt này mới đúng. Tại sao vậy? Người này dù gặp cảnh giới ác hay gặp cảnh giới kỳ đặc, đối với gã cũng đều y như mộng cả. Kẻ ấy không biết có lục căn mà cũng chẳng biết sáng tối. Dù cho đến được cảnh giới này, kỵ nhất vẫn cứ là đừng ôm giữ tro lạnh lửa chết, cũng như đừng lạc vào nơi tối ám âm u. Cũng vẫn cần phải có một con đường để chuyển than mới được. Há không nghe cổ nhân nói, “Đừng nắm giữ màu xanh của cỏ lạ trên vách núi lạnh, ngồi như mây trắng tông môn không huyền diệu.” Cho nên Liên Hoa Phong Am Chủ mới nói, “ Bởi vì nó không đắc lực trên đường.” Phải lên ngàn vạn đỉnh cao thì mới được. Nhưng mà thử nói xem, “ Ngàn vạn đỉnh cao là gì?”

Tuyết Đậu chỉ thích Am Chủ nói, “ Vác gậy trên vai chẳng màng ai, đi thẳng lên ngàn vạn đỉnh cao.” Cho nên mới tụng ra. Thử nói xem, Am Chủ đi về đâu? Có còn ai biết thầy ta đi về đâu chăng? Nước chảy hoa trôi quá bang bạc.” Hoa rụng tơi tả, nước chảy dật dờ. Đối với kẻ có căn cơ như thiểm điện, trước mắt là gì? “ Nhướng mắt lên nhìn đi về đâu?” Tại sao chính Tuyết Đậu cũng không biết thầy ta đi về đâu?” Cũng giống như sư núi tôi nói vừa rồi mới dơ phất trần lên. Thử nói xem, hiện giờ nó ở đâu? Nếu như các ông thấy được, các ông có thể cùng tham Thiền với Liên Hoa Phong Am Chủ. Nếu chưa được như thế, xin quay về phòng của mình mà quán sát cho cặn kẽ xem.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 188662)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 43791)
Theo phép thọ Bát quan trai giới, người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giới thanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới thì thứ lớp rất nhiều.
(Xem: 25032)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 30800)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21018)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38739)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 27360)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31082)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33094)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23952)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 16964)
Người học luật mà không hành trì, khó mà hiểu hết những điều được học có nghĩa lý gì. Trì luật, không phải chỉ sống thanh bạch một mình trên núi rừng với nai với khỉ...
(Xem: 20496)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 31895)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp...
(Xem: 18079)
Mục tiêu của đạo đứchạnh phúc, hay nói cách khác, muốn sống có hạnh phúc thì phải sống có đạo đức. Đạo đức phải được xây dựng trên cơ sở những tiêu chuẩn phù hợp...
(Xem: 20537)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27009)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 18039)
Giới bát quan trai được Phật thuyết cho các Thánh đệ tử; những người tuy sống đời tại gia, hưởng thụ ngũ dục của thế gian, nhưng tâm tư đã vững chắc trên Thánh đạo.
(Xem: 25545)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26628)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36568)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 28043)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 27275)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30319)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37088)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 37241)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23861)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 32273)
Nhóm 1: 8 pháp Ba la di Nhóm 2: 17 pháp Tăng tàn Nhóm 3: 30 pháp Xả đọa Nhóm 4: 178 tám pháp Đọa Nhóm 5: 8 pháp Hối quá Nhóm 6: 100 pháp Chúng học Nhóm 7: 7 pháp Diệt tránh.
(Xem: 55125)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 36897)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27558)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28294)
Công Phu Khuya
(Xem: 37937)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 25393)
Giới học là một trong ba học: Giới, Định, Tuệ. Ba học còn được gọi là ba vô lậu học. Gọi là vô lậu học là vì ba học này đưa đến đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến giải thoát...
(Xem: 24125)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
(Xem: 11222)
Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy
(Xem: 14490)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10614)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant