Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Hai Mươi Lăm: Liên Hoa Trụ Trượng

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15584)
Tắc thứ Hai Mươi Lăm: Liên Hoa Trụ Trượng

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 3

TẮC THỨ HAI MƯƠI LĂM

LIÊN HOA TRỤ TRƯỢNG

 

THÙY: Cơ không rời vị, rơi vào biển độc. Lời không kinh quần, vướng vào tầm thường. Hốt nhiên như ánh đá lửa phân biệt được tăng tục. Biện được sát hoạt trong ánh điện chớp, mới có thể tề bình mười phương, sừng sững như núi cao ngàn thước. Biết đó là thời tiết gì chăng? Xin nêu lên thử xem.

CỪ: Liên Hoa Phong Am Chủ dơ gậy lên dạy chúng rằng, “Cổ nhân đã đến đây, tại sao không chịu ở lại?” Trong chúng không ai nói gì, Am Chủ mới tự trả lời rằng, “Bởi vì họ không đắc lực trên đường.” Rồi lại nói tiếp, “Rốt cuộc như thế nào?” Rồi lại tự trả lời, “Vác gậy trên vai chẳng màng ai, đi thẳng lên trăm ngàn đỉnh cao.”

BÌNH: Các ông có phán xét được Liên Hoa Phong Am Chủ chăng? Gót chân của thầy ta vẫn chưa chấm đất. Vào đầu thời đại của chúng ta (nhà Tống) thầy ta dựng am trên đỉnh Liên Hoa trên núi Thiên Thai. Các bậc cổ nhân sau khi đắc đạo, thường ở trong lều tranh hang đá, nấu rau dãi trong nồi mẻ mà sống qua ngày. Không cầu danh lợi, phóng khoáng tùy duyên. (Thỉnh thoảng) dạy một lời then chốt, chỉ vì muốn đền ơn Phật, Tổ và truyền tâm ấn của Phật.

Mỗi khi thấy có ông tăng nào đến, Am Chủ thường dơ gậy lên nói, “ Cổ nhân đã đến đây, tại sao không chịu ở lại?.Trước sau hơn hai mươi năm mà rốt cuộc chưa từng có một người nào trả lời được. Chỉ một câu hỏi này thôi mà có cả quyền thực, chiếu dụng. Nếu như các ông đã biết cái bẫy của thầy ta, chẳng cần phải nắm vào làm gì. Nhưng mà thử nói xem, tại sao suốt hơn hai mươi năm mà thầy ta lại chỉ hỏi mỗi câu hỏi này? Đã là hành vi của bậc tong sư, tại sao lại chỉ nắm giữa một phía? nếu như các ông hiểu được điều này, đương nhiên sẽ không còn đi vào lối của tình trần.

Suốt trong hai mươi năm ấy có biết bao nhiêu người trình bày biện bạch, đưa ra kiến giải, giở hết tài nghệ của mình ra. Thí như có người nói được đi nữa, cũng chẳng đạt đến được chỗ cực tắc của Am Chủ. Hà huống tuy rằng việc này không ở nơi ngôn cú, song nếu khôngngôn cú thì làm sao phân biệt được? Há không nghe nói, “Đạo vốn vô ngôn, nhân ngôn hiển đạo” sao?Cho nên chỗ chính yếu để thử thách người khác là họ vừa mở miệng mình đã biết ngay âm thanh.

Cổ nhân dạy một câu nửa câu chẳng có ý gì khác, chỉ muốn xem các ông có biết có hay không mà thôi. Am Chủ muốn xem các ông có biết có hay không mà thôi. Am Chủ thấy người khác không hiểu cho nên mới tự trả lời rằng, “ Bởi vì nó không đắc lực trên đường.” Nhìn xem thầy ta nói được một cách khế cơ khế lý làm sao! Có bao giờ lạc mất tong chỉ đâu? Cổ nhân nói, “Nghe lời phải hiểu tông, đừng tự lập qui củ.” Người ngày nay vừa chạm phải đã nghĩ là mình đắc. Đắc thì đắc, song tại sao vẫn cứ một đầu lúng túng. Khi đến trước mặt một chuyên gia, thường có ba lời căn bản: “ấn không , ấn bùn , ấn nước,” để thử thách họ.Lúc ấy mới thấy rằng cũng giống như muốn nhét cọc vuông vào lỗ tròn, không thể nào mà vào được.

Đến chỗ này rồi, kiếm đâu ra được một người đồng đắc đồng chứng đây? Nếu như gặp được người biết là có, thì cứ mở rộng long mà giải bày. Có gì bất khả đâu? Nếu như không gặp được người, thì cứ giữ kín trong lòng. Tôi xin hỏi các ông, gậy là vật mà các ông tăng thường dung, tại sao Am Chủ lại nói là nó không đắc lực trên đường? Với lại cổ nhân đã đến đây tại sao không chịu ở lại? Bụi vàng tuy thực là quí song lúc nó bay vào mắt lại làm người ta mù.

Thạch Thất Thiện Đạo Hòa Thượng lúc bị nạn (khi Phật Giáo bị đàn áp vào năm 845) thường đưa gậy ra dạy chúng rằng, “Quá khứ chư Phật cũng thế, vị lai chư Phật cũng thế, hiện tiền chư Phật cũng thế.”

Một hôm trước tăng đường Tuyết Phong dơ gậy lên dạy chúng rằng.Cái này chỉ cho những người trung và hạ căn mà thôi. Lúc ấy có ông tăng bước ra hỏi, “Hốt nhiên gặp người thuộc căn cơ thượng thượng đến thì như thế nào?” Tuyết Phong nhặt gậy lên rồi bỉ đi. Vân Môn nói, “Tôi thì không giống như Tuyết Phong nhặt gậy lên rồi bỏ đi. Vân Môn nói, “ Tôi thì không giống như Tuyết Phong trong vấn đề dẹp tan những lúng túng.” Có ông tăng hỏi, “Chưa rõ hòa thượng thì như thế nào?” Vân Môn bèn đánh ông ta.

Phàm việc tham vấn, chẳng có gì nhiều nhặn cả.Chỉ vì các ông bên ngoài thì thấy có Phật để cầu, dưới thì thấy có chúng sinh để độ. Cần phải một lúc nhổ ra hết, sau đó trong suốt mười hai giờ, đi đứng nằm ngồi gì đều họp thành một thể. Lúc ấy tuy ở trên đầu một sợi lông mà vẫn thấy khoảng khoát như đại thiên thế giới, dù ở trong vạc dầu sôi mà vẫn như thể nơi an lạc quốc độ. Tuy ở giữa thất trân bát bảo mà vẫn tựa như ở trong lều tranh mái cỏ. Nếu như các ông là các tay chuyên gia thong suốt, các ông có thể đạt đến chỗ thật của cổ nhân một cách tự nhiên mà chẳng phí chút sức lực nào.

Am Chủ thấy không ai với tới được chỗ thâm sâu của mình cho nên mới lại nói, “ Rốt cuộc thì như thế nào?” Thiên hạ lại vẫn chẳng làm gì được, cho nên lại nói, “ Vác gậy trên vai chẳng màng ai, đi thẳng lên trăm ngàn đỉnh cao.” Thế nào là ý nghĩa của câu nói này? Thử nói xem, Am Chủ chỉ chỗ của thầy ta? Quả thật rằng có mắt trong lời, ngoài lời có ý. Tự đứng lên tự ngã xuống, tự buông bỏ tự nắm giữ.

Há không nghe chuyện Nghiêm Dương Tôn Giả trên đường gặp một ông tăng. Nghiêm Dương dơ gậy lên hỏi, “ Cái gì đây?” Ông tăng nói, “không biết.” Nghiêm Dương nói, “ Có mỗi một cái gậy mà ông cũng không biết!” Nghiêm Dương lại cầm gậy trên mặt đất nói, “ Biết chứ?” Ông tăng nói, “ Không biết.” Nghiêm Dương nói, “Cái lỗ trên mặt đất mà ông cũng không biết?” Nghiêm Dương lại gánh gậy lên vai, nói, “Hiểu không?” Ông tăng nói, “Không hiểu.” Nghiêm Dương nói, “Vác gậy lên vai chẳng màng ai, đi thẳng lên trăm ngàn đỉnh cao.” Cổ nhân đã đến đây , tại sao không chịu ở lại?”

Tuyết Đậu có bài tụng rằng, “ Ai kẻ gặp cơ duyên? Nêu lên không lừa dối. Người như thế thật hiếm, xô ngã cả đỉnh cao. Nấu chảy cả huyền vi, trùng quan đã mở rộng. Chuyên gia chưa cùng về, ngọc thỏ chợt tròn chợt khuyết.Kim ô bay mà không bay, lão Lô không biết đi về đâu, mây trắng nước trôi đều lưu luyến.”

Tại sao sư núi tôi lại nói, “ Sau đầu thấy má, đừng nên qua lại”? Vừa toan so đo là các ông đã vướng vấp trong núi tối hang ma rồi. Nếu như các ông thấy được suốt đủ được lòng tin thì ngàn người vạn người không chi phối mà cũng chẳng làm gì được các ông. Bị dồn này đẫy, các ông sẽ biết sát hoạt một cách tự nhiên. Tuyết Đậu hiểu ý của Am Chủ khi thầy ta nói, “Đi thằng lên trăm ngàn đỉnh cao.” Mới bắt đầu làm bài tụng. Nếu như các ông muốn biết ý hướng (của công án) xin xem tụng của Tuyết Đậu.

TỤNG

Bụi trần trong mắt đất trong tai,

Trăm ngàn đỉnh cao không chịu ở.

Nước chảy hoa trôi quá bang bạc,

Nhướng mắt lên nhìn đi về đâu?

BÌNH: Tuyết Đậu tụng hết sức là tuyệt, có chỗ chuyển than và không nệ vào một góc. Lập tức thầy ta nói, “ Bụi trần trong mắt đất trong tai.” Câu này tụng Liên Hoa Phong Am Chủ. Các nạp tăng đến chỗ này, trên không có gì để kính ngưỡng, dưới cắt đứt hết tự ngã, bất cứ lúc nào cũng như ngớ như ngẫn. Há không nghe Nam Tuyền nói, “ Những người học đạo mà như si độn thì thật là khó kiếm.” Pháp Đăng nói, “ Ai hiểu được ý này, khiến tôi nhớ Nam Tuyền.” Nam Tuyền lại nói, “ Bảy trăm cao tăng đều là những người hiểu Phật pháp. Chỉ có Lô hành giả là không hiểu Phật pháp, mà chỉ hiểu đạo, cho nên mới được y bát của (Ngũ Tổ)”. Thử nói xem Phật pháp và đạo cách nhau bao xa?

Tuyết Đậu nêu rằng, “ Cát không vào được mắt, nước không vào được tai. Thảng hoặc có một người như thế, có đủ đức tin, nắm giữ chắc chắn, kẻ ấy hẳn không bị người khác lừa dối. Ngôn giáo của Phật với Tổ lúc ấy chỉ còn là những tiếng huyên náo vô nghĩa mà thôi. Xin mời các ông treo cao bát và túi, bẻ gãy gậy đi, rồi làm các vô sự đạo nhân mà thôi.” Tuyết Đậu cũng nói, “ Mắt chứa được núi Tu Di, tai chứa được nước biển lớn. Có một loại người, chịu sự thương lượng của người khác. Ngôn giáo của Tổ, Phật lúc ấy như thể rồng gặp nước cọp dựa núi. Người ấy nên nhặt bát và túi vác gậy trên vai. kẻ ấy cũng là một vô sư đạo nhân.” Tuyết Đậu lại nói,” Như thế cũng không được mà không như thế cũng không được. Rốt cuộc chẳng có gì là nhằm nhò cả.”

Trong ba loại vô sự đạo nhân kia, nếu như chọn một làm thầy, thì phải là cái người đúc sắt này mới đúng. Tại sao vậy? Người này dù gặp cảnh giới ác hay gặp cảnh giới kỳ đặc, đối với gã cũng đều y như mộng cả. Kẻ ấy không biết có lục căn mà cũng chẳng biết sáng tối. Dù cho đến được cảnh giới này, kỵ nhất vẫn cứ là đừng ôm giữ tro lạnh lửa chết, cũng như đừng lạc vào nơi tối ám âm u. Cũng vẫn cần phải có một con đường để chuyển than mới được. Há không nghe cổ nhân nói, “Đừng nắm giữ màu xanh của cỏ lạ trên vách núi lạnh, ngồi như mây trắng tông môn không huyền diệu.” Cho nên Liên Hoa Phong Am Chủ mới nói, “ Bởi vì nó không đắc lực trên đường.” Phải lên ngàn vạn đỉnh cao thì mới được. Nhưng mà thử nói xem, “ Ngàn vạn đỉnh cao là gì?”

Tuyết Đậu chỉ thích Am Chủ nói, “ Vác gậy trên vai chẳng màng ai, đi thẳng lên ngàn vạn đỉnh cao.” Cho nên mới tụng ra. Thử nói xem, Am Chủ đi về đâu? Có còn ai biết thầy ta đi về đâu chăng? Nước chảy hoa trôi quá bang bạc.” Hoa rụng tơi tả, nước chảy dật dờ. Đối với kẻ có căn cơ như thiểm điện, trước mắt là gì? “ Nhướng mắt lên nhìn đi về đâu?” Tại sao chính Tuyết Đậu cũng không biết thầy ta đi về đâu?” Cũng giống như sư núi tôi nói vừa rồi mới dơ phất trần lên. Thử nói xem, hiện giờ nó ở đâu? Nếu như các ông thấy được, các ông có thể cùng tham Thiền với Liên Hoa Phong Am Chủ. Nếu chưa được như thế, xin quay về phòng của mình mà quán sát cho cặn kẽ xem.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22298)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16026)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15034)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18962)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14453)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18634)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14432)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13592)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13556)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11822)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13265)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13669)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13942)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13254)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15026)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16166)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11086)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16459)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11910)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17602)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12881)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13717)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12867)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14861)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16396)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13134)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12094)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12776)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12919)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12794)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14179)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14127)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16483)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12381)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14391)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11334)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11038)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13196)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13897)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13167)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13007)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13512)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12740)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10236)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13970)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10238)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13708)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16272)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11969)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12981)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11662)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12683)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10800)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11001)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10946)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11901)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12770)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11069)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12622)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11330)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant