Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tắc thứ Ba Mươi Lăm: Văn ThùVô Trước

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15892)
Tắc thứ Ba Mươi Lăm: Văn Thù và Vô Trước

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 4

TẮC THỨ BA MƯƠI LĂM

VĂN THÙVÔ TRƯỚC

 

THÙY: Định Rồng rắn, phân ngọc đá, biện tăng tục, quyết do nghi. Nếu như không có mắt trên đỉnh đầu bùa dưới khuỷu tay, thường thường để lỡ mất. Như giờ đây kiến văn không mờ, thanh sắc thuần chân. Thử nói xem là đen hay trắng? Cong hay thẳng? Đến chỗ này, phải phân biện như thế nào?

CỬ: Vân Thù[8] hỏi Vô Trước, “Thầy mới từ đâu đến vậy?” Vô Trước[9] nói, “Từ phương Nam.” Văn Thù nói, “Phật pháp ở phương Nam như thế nào?” Vô Trước nói, “Các Tỳ khưu thời mạt pháp[10] ít chịu tuân theo giới luật.” Văn Thù hỏi, “Chúng hội thường có bao nhiêu người? Vô Trước nói, “ Từ ba đến năm trăm.” Vô Trước lại hỏi Văn Thù, “Ở đây thì Phật pháp trụ trì như thế nào?” Văn Thù nói, “ Thánh phàm đồng cư, rồng rắn hỗn tạp.” Vô Trước nói, “Chúng hội thường có bao nhiêu người?” Văn Thù nói, “ Tiền tam tam, hậu tam tam.”[11]

BÌNH:Vô Trước viếng Ngũ Đài Sơn, đến một chỗ hoang vu giữa đường. Văn Thù biến ra một ngôi chùa để tiếp thầy ta nghỉ qua đêm. Rồi Văn Thù hỏi, “ Thầy mới từ đâu đến vậy?” Vô Trước nói, “Từ phương Nam.” Văn Thù nói, “Phật pháp ở phương Nam trụ trì như thế nào?” Vô Trước nói, “ Các tỳ khưu thời mạt pháp ít chịu giữ giới luật.” Văn Thù hỏi, “ Chúng hội thường có bao nhiêu người?” Vô Trước nói, “Từ ba đến năm trăm.” Vô Trước lại hỏi Văn Thù, “Ở đây thì Phật pháp trụ trì như thế nào?” Văn Thù nói, “ Thánh phàm đồng cư, rồng rắn hỗn tạp.” Vô Trước nói, “ Chúng hội thường có bao nhiêu người.” Văn Thù nói, “ Tiền tam tam, hậu tam tam.”

Rồi hai người dùng trà. Văn Thù dơ chén pha lê lên nói, “Ở phương Nam có cái này không?” Vô Trước nói, “Không”. Văn Thù nói, “Thế thì thường họ dùng cái gì để uống trà?” Vô Trước không nói gì được. Sau đó từ biệt ra đi. Văn Thù sai Quan Đế Đồng Tử tiễn ra cửa. Vô Trước nói, “Không”. Vân Thù nói, “Thế thì thường họ dùng cái gì để uống trà?” Vô Trước không nói gì được. Sau đó từ biệt ra đi. Văn Thù sai Quan Đế Đồng Tử tiễn ra cửa. Vô Trước nói, “ Vừa rồi ngài Văn Thù nói Tiền tam tam, hậu tam tam có nghĩa là bao nhiêu vậy?” Đồng Tử gọi, “Đại đức!” Vô Trước nói, “Vâng” Đồng Tử nói, “ Như thế là bao nhiêu vậy?” Vô Trước lại hỏi, “Đây là chùa gì vậy?” Đồng Tử đưa tay chỉ tượng Kim Cương ở phía sau. Lúc Vô Trước quay đầu nhìn thì cả ngôi chùa và đồng tử đều biến mất, chung quanh chỉ là một thung lũng hoang vu mà thôi. Sau này nơi ấy được gọi là Động Kim Cương.

Sau đó có ông tăng hỏi Phong Huyệt, “ Thế nào là vị chủ ở Thanh Lương Sơn?” Phong Huyệt nói, “Một câu không rảnh đáp Vô Trước, đến nay vẫn làm sư lang thang.”[12] Nếu như các ông muốn tham thấu một cách vững vàng, chân đứng trên mặt đất, hiểu được lời nói của Vô Trước, thì tự nhiên dù là ở trong vạc dầu lò lửa cũng không thấy nóng, ở trên băng tuyết vẫn không thấy lạnh. Nếu muốn tham thấu một cách nguy hiểm vời vợi như Kim Cương Bảo Kiếm, hiểu được lời nói của Văn Thù, thì tự nhiên là nước tưới không ướt, gió thổi không vào.

Há không nghe chuyện Chương Châu Địa Tạng hỏi một ông tăng, “Thầy mới từ đấu đến vậy?” Ông tăng nói, “Phương Nam”. Địa Tạng nói, “Phật pháp ở đó như thế nào?” Ông tăng nói, “ Bàn luận hết sức sôi nổi.” Địa Tạng nói, “Có giống như chúng tôi ở đây làm ruộng có rất nhiều gạo để ăn?” Thử nói xem, câu đáp này giống hay khác với câu đáp của Văn Thù? Có người nói, “ Câu đáp của Vô Trước không đúng. Trong câu đáp của Văn Thù có rồng có rắn có phàm có thánh.” Song nói như thế đâu có gì là đúng. Các ông đã phân biện được tiền tam tam, hậu tam tam chưa? Mũi tên thứ nhất còn nhẹ, mũi tên thứ hai bao giờ cũng sâu hơn. Thử nói xem, đó là bao nhiêu? Nếu như hiểu được chỗ này thì trăm câu vạn câu cũng chỉ là một câu. Nếu như đối với một câu này mà cắt đứt, nắm vững được, thì ngay giây phút sau các ông sẽ đạt đến cảnh giới này.

TỤNG

Ngàn đỉnh chập chùng mầu xanh lơ,

Ai bảo Văn Thù cùng đối đàm?

Nực cười Thanh Lương bao nhiêu chúng?

Tiền tam tam với hậu tam tam.

BÌNH: “Ngàn đỉnh chập chùng mầu xanh lơ, ai bảo Văn Thù cùng đối đàm?” Có người bảo Tuyết Đậu chỉ nêu lên thêm một lần nữa chứ không hề tụng. Cũng giống như có ông tăng hỏi Pháp Nhãn, “ Thế nào là một giọt nước Tào Khê?” Pháp Nhãn nói, “ Là một giọt nước Tào Khê.” Có ông tăng hỏi Lang Da Giác Hòa Thượng, “ Thanh Tịnh bổn nhiên tại sao hốt nhiên lại sinh sơn hà đại địa?” Giác Hòa Thượng nói, “ Thanh tịnh bổn nhiên tại sao hốt nhiên lại sinh sơn hà đại địa?” Trong cả hai trường hợp trên đều không thể nói rằng chỉ là lặp lại câu hỏi.

Minh Chiêu Độc Nhãn Long cũng tụng rằng ý này có cơ bao chum cả trời đất như sau, “ Già làm trải rộng khắp trần sa, Văn Thù đầy mắt đang đõi đàm. Nghe lời không biết mở Phật Nhãn, quay đầu chỉ thấy núi xanh lơ”.

“Già lam trải rộng khắp trần sa.” Đây chỉ cái đồng cỏ được biến thành ngôi chùa. Đây chính là cái gọi là có khả năng quyền thực song hành. “ Văn Thù đầy mắt đang đối đàm. Nghe lời không biết mở Phật nhãn, quay đầu chỉ thấy núi xanh lơ.” Chính vào lúc ấy, gọi là cảnh giới của Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm có được không? Dù không phải là nguyên lý này đi nữa, Tuyết Đậu cũng chỉ thay đổi cái dụng của Minh Chiêu mà thôi, thầy ta lại có kim và chỉ. “ Ngàn đỉnh chập chùng mầu xanh lơ.” Thầy ta không phạm ngón tay vào mũi nhọn. Trong câu ấy có quyền có thực có lý có sự. “ Ai bảo văn Thù cùng đối đàm?” Đối thoại với nhau cả đêm mà Vô Trước đâu có biết đó là Văn Thù.

Sau đó Vô Trước ở trên Ngũ Đài Sơn làm điển tòa.Mỗi lần Văn Thù xuất hiện trên nồi cháo đều bị Vô Trước cầm môi múc cháo lên đánh. Dù vậy đi nữa cũng chẳng khác gì kẻ cướp đi rồi mình mới giương cung. Ngay cả lúc mà Văn Thù nói,” Phật pháp ở phương Nam trù trì như thế nào?” Vô Trước lẽ ra phải dơ tay đánh ngay thì còn có chút gì. “ Nực cười Thanh Lương bao nhiêu chúng?” Trong nụ cười của Tuyết Đậu có lưỡi dao. Nếu như hiểu được nụ cười này đương nhiên sẽ hiểu được câu nói “tiền tam tam với hậu tam tam” của Văn Thù.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22255)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16001)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15014)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18927)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14430)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18611)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14401)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13562)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13541)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11805)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13221)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13642)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13919)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13241)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15013)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16148)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11076)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16438)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11885)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17578)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12864)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13690)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12840)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14844)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16370)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13119)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12071)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12753)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12877)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12756)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14152)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14095)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16450)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12370)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14371)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11293)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11014)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13181)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13879)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13147)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12993)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13483)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12712)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10224)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13954)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10212)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13689)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16249)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11945)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12958)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11626)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12652)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10779)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10972)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10926)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11868)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12741)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11045)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12604)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11301)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant