Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tắc thứ Bốn Mươi: “Giống Như Mộng” Của Nam Tuyền

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15233)
Tắc thứ Bốn Mươi: “Giống Như Mộng” Của Nam Tuyền

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 4

TẮC THỨ BỐN MƯƠI

“GIỐNG NHƯ MỘNG” CỦA NAM TUYỀN

 

THÙY: Ngưng đi ngỉ đi, cây sắt trổ hoa. Có không có không? Trẻ khôn mất nhịp. dù cho tung hoành ngang dọc cũng khó không bị xỏ mũi. Thử nói xem sai lầm ở chỗ nào? Xin nêu lên xem.

CỬ: Lục Hoàn đại phu lần kia nói chuyện với Nam Tuyền, nói rằng, “Triệu pháp sư nói, ‘Trời đất với mình đồng căn, vạn vật với mình một thể’ kể cũng kỳ quái thật” Nam Tuyền chỉ vào đóa hoa ngoài sân, rồi gọi Lục đại phu mà nói rằng, “Người bây giờ thấy đóa hoa này giống như thể một giấc mộng vậy.”

BÌNH: Lục Hoàn đại phu học với Nam Tuyền rất lâu.Bình thường hay lưu tâm nơi lý tính và đắm mình trong bộ Triệu Luân[17]. Một hôm đang nói chuyện với Nam Tuyền bèn nêu lên hai câu kia cho là kỳ đặc. Lục đại phu nói, “Trời đất với mình đồng căn, vạn vật với mình một thể, kể cũng kỳ quái thật.” Triệu Pháp Sư là bậc cao tăng đời nhà Tấn, cùng với Đạo Sinh, Đạo DungTăng Duệ là môn hạ của ngài La Thập[18], được người đương thời gọi là “ tứ triết.” Thuở còn nhỏ thích đọc Lão Trang, sau đó nhân lúc chép bản Kinh Duy Ma cũ mà có chỗ sờ ngộ. Mới biết rằng cái học của Lão Trang chưa phải là cái thiện cứu cánh. Cho nên mới tông hợp các kinh điển mà viết ra bốn thiên luận.[19]

Cái ý của triết học Lão Trang là “ cái hình thể của thiên địa là lớn, cái hình thể của mình cũng thế; cùng sinh ra ở giữa hư vô. Cái ý của Trang Tử là chỉ luận về “tề vật”;[20] Đại ý của các thiên luận của Triệu ông nói rằng tính (của sự vật) đều qui về chính mình. Há không thấy trong luận của ngài có nói rằng, “phàm bậc chí nhân thì trống không, không hình tướng, song vạn vật không cái gì không phải do mình tạo ra. Phải chăng chỉ có bậc thánh nhân mới hiểu được rằng vạn vật là chính mình. Tuy có thân, có người , có hiền, có thánh, mỗi cái khác nhau, song tất cả đều cùng một tính một thể.

Cổ nhân nói, “Tất cả càn khôn đại địa chỉ là một tư thể của mình mà thôi. Khi lạnh thì cả trời đất lạnh, khi nóng thì cả trời đất nóng. Có thì cả trời đất có, không thì cả trời đất không. Đúng thì cả trời đất đúng, sai thì cả trời đất sai.” Pháp Nhãn nói, “Hẳn hắn hắn tôi tôi tôi, nam bắc đông tây đều được, được hay không được , chỉ có tôi không gì không được.” Cho nên (đức Phật) mới nói,”Trên trời dưới trời chỉ có mình ta là tôn quí.”[21] Thạch Đầu đọc bộ, Triệu luận đến chỗ “vạn vật là chính mình” bèn hoát nhiên đại ngộ. Sau đó soạn cuốn Tham Đồng Khế cũng không ngoài ý này.

Xem (Lục đại phu) hỏi như thế, thử nói xem họ đồng căn ở chỗ nào? Đồng thế ở chỗ nào? Đến chỗ này rồi, kể ra cũng kỳ đặc hết sức. Há lại giống như kẻ tầm thường không biết trời cao đất dầy? Làm gì có chuyện đó. Lục Hoàn đại phu hỏi như thế, tuy có kỳ đặc thật, song vẫn chưa vượt ra khỏi được giáo ý. Nếu như bảo rằng giáo ý là cùng cực rồi, Thế Tôn việc gì còn phải niêm hoa nữa?[22] Và Tổ Sư từ Tây Trúc đến để làm gì?

Cách đáp của Nam Tuyền, nắm mũi của sư tăng mà đưa chỗ đầu ra, để phá vở các hang hố của người khác. Cho nên mới bèn chỉ đóa hoa ngoài sân rồi gọi Lục đại phu mà nói rằng, “ Người bây giờ thấy đóa hoa này giống như thể một giấc mộng vậy. “Giống như đặt một người ra bờ vách cao vạn trượng rồi đẩy hẳn một cái để cắt đứt mạng sống của hắn. Nếu như các ông chỉ bị xô ngã trên đất bằng, thì dù có đến lúc Di Lặc hạ sinh đi nữa cũng không biết cách cắt đứt mạng sống.[23]

Cũng giống như một người nằm mộng, muốn tỉnh mà không tỉnh được, lúc được người khác gọi mới tỉnh được.Nếu như mắt của Nam Tuyền mà không ngay chính hẳn đã bị Lục đại phu làm cho lúng túng rồi. Nhìn xem Nam Tuyền nói như thế, song quả thật là khó hiểu. Nếu như mắt của các ông sống động, thì các ông sẽ thấy nó như thể độc dược. Cổ nhân nói, “Nếu như thấy ở nơi sự việc thì nó rất là thường tình, còn nếu như dựa vào ý căn mà so đo thì chẳng rờ rẫm ra được.” Nham Đầu nói, “Đây chính là cách sống của bậc hướng thượng, chỉ để lộ ra trước mắt một chút thôi, giống như thể điện chớp.”

Đại ý của Nam Tuyền là như thế , Sư có khả năng bắt cọp tê xử rồng rắn. Đến chỗ này rồi, các ông cần phải tự hiểu một mình mới được. Há không nghe nói, “Một đường hướng thượng, ngàn thánh không truyền, kẻ học mệt nhọc, như khỉ bắt bóng.” Xem Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG

Kiến văn giác tri không phải một,

Núi sông không phải quán trong gương,

Trơi sương trăng rụng đêm gần nửa,

Ai cùng hồ trong soi bóng lạnh.

BÌNH: Lời nói mê nhỏ của Nam Tuyền, lời nói mê lớn của Tuyết Đậu, tuy họ nằm mơ, song mơ một giấc mơ thật là đẹp. Thoạt đầu nói về “một thể” , ở đây thầy ta nói không phải là đồng nhất. “Kiến văn giác tri không phải một, Núi sông không phải quán trong gương.” Nếu như bảo rằng phải quán trong gương trước rồi sau đó mới hiện rõ, thì chúng đâu có rời chỗ của gương. Sơn hà đại địa, cây cỏ rừng rậm, đừng lấy gương ra mà soi. Nếu như lấy gương ra soi, thì chúng bèn biến thành hai phần. Cứ để cho núi là núi sông là sông, mọi vật trụ nơi vị của mình. Thế gian tướng thường trụ.

“Núi sông không phải quán trong gương”. Thử nói xem phải quán ở chỗ nào? Các ông có hiểu không? Đến chỗ này rồi, các ông phải hướng về “trời sương trăngrụng đêm gần nửa.” Phía này đã biện rõ cho các ông cả rồi, phía bên kia các ông phải tự qua một mình. Các ông có biết được là Tuyết Đậu đem việc riêng của mình ra mà giúp người khác chăng? “Ai cùng hồ trong soi bóng lạnh.” Soi một mình hay là cùng soi với người khác? Phải cắt đứt hết cơ duyên hết hiểu biết thì mới đạt đến cảnh giới này được. Hiện giờ chẳng cần hồ trong mà cũng chẳng phải đợi trời sương trăng rụng. Hiện giờ thì như thế nào?
 
 

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Nhất Túc Giácbiệt hiệu của Vĩnh Gia

[2] .Nguyên văn: “nhất cú tiệt lưu” có nghĩa là một câu cắt đứt hết mọi dòng tư tưởng.

[3] Nguyên tác là chữ “hằng”, sửa lại là chữ “vi” cho đúng. Đoạn này bản của Ito Yuten khác hẳn. Chúng tôi dựa theo bản của Cổ Phương.

[4] Nguyên văn: “ hoàng quyển xích trục.” Sách vở đời xưa đều viết bằng lụa rồi lấy trục cuộn lại. Cho nên “quyển trục” có nghĩa là sách vở.

[5] Phi phi tưởng thiên: Vô sắc giới có tứ thiên, phi phi tưởng thiên chính là đệ tứ thiên trong đó. Đây là cõi trời cao nhất trong tam giới, sở dĩ có tên như vậy là do lấy thiền định mà gọi. Định tâm ở cõi này thì hết sức tinh diệu, khác với các thô tường nơi hạ điạ. Xin xem them: Randy Kloetzli, Buddhist Cosmology.New Delhi, 1983.

[6] Mục Châu (780-877), xin xem tắc thứ mười. Về tiểu sử xin xem thêm trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục,cùng một dịch giả, sẽ xuất bản.

[7] Nguyên văn: “ngôn trung biện đích, cú lý tang cơ.”

[8] Văn Thù (Manjusrì) là biểu tượng của trí huệ.

[9] Vô Trước tức Hàng châu Vô Trước Văn Hỉ thiền sư là người truyền thừa của Ngưỡng Sơn Huệ Tịch.

[10] Mạt pháp; Theo truyền thống phật giáo thì Phật pháp có bà thời kỳ là chính, tượng và mạt pháp. Truyền thống thường được chấp nhận nhất là: chính pháp có năm trăm năm, tượng pháp có một ngàn năm và mạt pháp có một vạn năm.

[11] “Trước ba ba, sau ba ba.”

[12] Nguyên văn: “ Nhất cú bất hoảng Vô Trước vấn , ngất kim do tác dã ban tăng” có nghĩa là “ một câu không đủ rảnh để đáp câu hỏi của Vô Trước, cho đến hiện giờ (thầy ta) vẫn là một ông tăng lang thang.” Welhelm Gundert dịch câu này rất là chính xác: “ Der hat sich mit seinem Spruch uberhaupt nicht Zeit gelassen, auf Wudscho’s Frage einzugehen.Erist noch bis zum heutigen Tag ein vagabundierender Monch.” Wilhelm Dundert, Bi-Yan-Lu 2.Band.Munchen,1967,trang 48.

[13] Sách Ngũ Đăng Hội Nguyên cũng nói rằng Bàn Sơn Bảo Tích Thiền Sư là người U Châu, nối Pháp của Mã Tổ Đạo Nhất. Sau khi tịch thụy là Ngưng Tịch Thiền Sư. về tiểu sử của Bàn Sơn xin xem thêm trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, cùng một dịch giả, sẽ xuất bản.

[14] Có nghĩa là “trong tam giới (dục, sắc và vô sắc giới) không có một pháp nào cả, biết tìm tâm ở đâu?”

[15] “Hồ” có nghĩa là Ấn Độ.

[16] Tức là “thế tục đế” (samvrtisatya) hay “ thực tại công ước.”

[17] Triệu Luân là tên bộ sách của Tăng Triệu, sống vào khoảng cuối thế kỷ thứ IV cho đến đầu thế kỷ thứ V.

[18] La Thập tức Cưu Ma La Thập ( Kumarajìva), một trong những dịch giả lừng danh nhất của văn học Phật giáo. Về tiểu sử của La Thập xin xem Kenneth Ch’en, Buddhism in China.Princeton: Princeton University Press, 1964, các trang 81-83.

[19] Bốn thiên luận trong bộ Triệu Luận là (a) “ Vật Bất Thiên”, (b) “ Bất Chân Không”, (c) “ Bát Nhã VÔ Tri”, và (d) “ Niết Bàn Vô Danh”.

[20] “Tề vật” có nghĩa là coi mọi sự vật bằng nhau. Đây là một quan niệm trong thiên” Tề Vật Luận” Trong sách Trang Tử.

[21] Theo truyền thống lúc Đức Phật mới sinh ra, đứng lên bước đi bảy bước rồi nói rằng; “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn.”

[22] “Niệm hoa”: theo truyền thống Thiền thì một lần kia Đức Phật bước lên giảng tòa để thuyết Pháp, song ngài lại lại không nói gì cả mà chỉ cầm một nhánh hoa dơ lên. Chúng hội không ai hiểu gì cả, chỉ có mình ngài Ca Diếp mỉm cười. Đức Phật bèn trao truyền tâm ấn cho ngài Ca Diếp làm vị Tổ thứ nhất.

[23] Ở đây có nghĩa là cắt đứt dòng tư tưởng chấp trước.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22242)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15996)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15013)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18918)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14430)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18609)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14393)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13559)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13537)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11803)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13219)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13641)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13917)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13239)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15012)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16145)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11074)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16434)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11879)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17575)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12864)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13685)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12836)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14838)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16366)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13117)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12069)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12738)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12874)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12753)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14147)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14090)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16444)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12364)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14371)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11289)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11010)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13177)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13877)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13145)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12985)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13480)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12704)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10221)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13951)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10208)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13677)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16246)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11945)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12955)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11621)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12648)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10774)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10969)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10921)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11861)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12724)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11044)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12598)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11293)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant