Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tắc thứ Bốn Mươi Mốt: Người Chết Lớn Của Triệu Châu

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15654)
Tắc thứ Bốn Mươi Mốt: Người Chết Lớn Của Triệu Châu

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 5

TẮC THỨ BỐN MƯƠI MỐT

NGƯỜI CHẾT LỚN CỦA TRIỆU CHÂU

 

THÙY: Chỗ thị phi lẫn lộn, bậc thánh cũng không biết;lúc nghịch thuận tunh hoành, Phật cũng chẳng biện được. Là bậc tuyệt thế siêu quần, để lộ cái khả năng trổi vượt. Bước trên bằng mỏng đi trên lưỡi kiếm. Giống như thể sừng kỳ lân, hoa sen trong lửa. Vừa thấy kẻ siêu quần đã biết là động dao.Ai là tay hảo thủ? Xin nêu lên xem!

CỬ: Triệu Châu hỏi Đầu Tử, “Kẻ đã chết ngắc rồi lại sống dậy thì như thế nào?” Đầu Tử nói, “Không được đi đêm, ban ngày hãy tới.”

BÌNH: Triệu Châu hỏi Đầu Tử, “Kẻ đã chết ngắc rồi lại sống dậy thì như thế nào?” Đầu Tử trả lời, “Không được đi đêm, ban ngày hãy tới.” Thử nói xem đó là thời tiết gì vậy? Sao không lo đập vào phách đá, đó gọi là câu hỏi để thử chủ. Và cũng gọi là câu hỏi tâm hành. Người khắp nơi ai cũng ca ngợi Đầu TửTriệu Châu là có tài hung biện siêu quần. Tuy hai người là truyền nhân của hai dòng khác nhau, song thử nhìn xem cơ phong của họ mới ăn khớp làm sao.

Một hôm Đầu Tử thiết tiệc trà đãi Triệu Châu, đích thân đưa bánh hấp đến cho Triệu Châu, Triệu Châu không buồn để ý. Đầu Tử sai một hành giả khác đưa bánh cho Triệu Châu. Triệu Châu vái hành giả ba lần. Thử nói xem ý của thầy ta như thế nào? Nhìn xem thầy ta luôn luôn hướng vào tận gốc rễ của vạn vật để mà khai mở cho người khác.

Có ông tăng hỏi Đầu Tử, “Đạo là gì?” Đầu Tử nói, “Đạo.” Ông tăng hỏi, “Phật là gì?” Đầu Tử nói, “ Phật” Ông tăng lại hỏi, “Lúc khóa vàng chưa mở thì như thế nào?” Đầu Tử nói, “Mở”. Ông tăng nói, “ Lúc kim đê chưa gáy thì như thế nào?” Đầu Tử nói, “Không có cái âm thanh ấy.” Ông tăng hỏi, “Thế sau khi gáy rồi thì như thế nào?” Đầu Tử nói, “ Mỗi cái tự biết thời của mình.” Đầu Tử bình sinh vấn đáp đều như vậy cả.

Thử nhìn xem Triệu Châu hỏi Đầu Tử,” Kẻ đã chết ngắc rồi lại sống dậy thì như thế nào?” Đầu Tử bèn nói, “Không được đi đêm, ban ngày hãy tới.” Như đá lửa điện chớp, phải là người hướng thượng như thầy ta thì mới có thể như thế được.

Một người đã chết ngắc rồi thì chẳng có Phật pháp đạo lý, huyền diệu đắc thất thị phi dài ngắn gì cả. Đến chỗ này rồi thì cứ như thế mà thôi. Cổ nhân gọi là “ Trên đất bằng người chết vô số, vượt qua được khu rừng gai góc mới là tay hảo thủ.” Phải thấu qua được bên kia mới được. Tuy là thế, song người bây giờ ngay cả chỉ đạt đến được mức độ này cũng đã là khó lắm rồi.

Nếu như các ông vẫn còn nương cậy vào thiên kiến thì ắt chẳng thể hiểu được. Triết Hòa Thượng gọi đó là cái thấy không thuần khiết. Ngũ Tổ gọi là mạng căn chưa cắt đứt.[1]Phải chết đi một lần rồi sống lại thì mới được.Vĩnh Quang Hòa Thượng ở triết Trung nói, “Nếu như không nắm được cơ phong kể như xa nhà ngàn dặm. Phải buông tay trên bờ vực thẳm, dám đưa vai ra gánh chịu, chết đi sống lại. Không lừa dối các ông được, cái yếu chỉ phi thường này làm sao người ta che giấu được?”

Ý nghĩa câu hỏi của Triệu Châu là như vậy. Đầu Tử là bậc chuyên gia cho nên cũng không cô phụ câu hỏi của Triệu Châu. Chỉ có điều thầy ta tuyệt tình tuyệt tích, cho nên không thể nào mà không khó hiểu. Thầy ta chỉ để lộ trước mắt chút đỉnh mà thôi. Cổ nhân nói, “Muốn đạt được thân thiết, đừng đem câu hỏi đến hỏi. Câu hỏi nằm trong câu trả lời, câu trả lời nằm trong câu hỏi.” Nếu như không phải là Đầu Tử mà bị Triệu Châu hỏi một câu hỏi, hẳn là thấy khỏ trả lời vô cùng. Chỉ bởi vì Đầu Tử là tay chuyên gia cho nên vừa thấy nêu lên là đã biết cốt yếu.

TỤNG

Trong sống có mắt giống như chết,

Thuốc kỵ làm sao thử chuyên gia?

Cổ Phật cũng bảo là chưa đến,

Không hiểu ai biết rải cát bụi.

BÌNH: “Trong sống có mắt giống như chết.” Tuyết Đậu là người biết cơ, cho nên mới dám tụng. Cổ nhân nói, “Thầy ta tham câu sống chứ không tham câu chết.” Tuyết Đậu nói trong sống có mắt thì cũng giống như người chết vậy. Thầy ta đã từng chết chưa? Trong chết mà có mắt thì cũng giống như sống. Cổ nhân nói, “ Giết hết kẻ chết thì mới thấy người sống. Làm sống lại tất cả người chết, thì mới thấy được người chết.”

Triệu Châu là người sống cho nên mới tạo ra một câu hỏi chết để thử Đầu Tử. Giống như thể lấy một vật kỵ với thứ thuốc nào đó để thử nó. Cho nên Tuyết Đậu mới nói, “Thuốc kỵ làm sao thử chuyên gia?” Đây là để tụng câu hỏi của Triệu Châu. Sau đó lại tụng Đầu Tử.” Cổ Phật cũng bảo là chưa đến.” Ngay cả chỗ người đã chết này sống lại Cổ Phật cũng chưa từng đến. Các lão hòa thượng trong thiên hạ cũng chưa từng đến. Dù cho là Thích Ca lão tử, bích nhãn hồ tăng (Bồ Đề Đạt Ma) cũng cần phải tham (Thiền) thêm nữa mới được. Cho nên Tuyết Đậu mới nói, “Chỉ có lão Hồ biết chứ không cho lão Hồ hiểu.”

Tuyết Đậu nói, “Không hiểu ai biết rãi cát bụi.” Há không nghe chuyện có ông tăng hỏi Trường Khánh, “Thế nào là mắt của bậc thiện tri thức?” Trường Khánh nói, “Người ấy có cái nguyện không rải cát.” Bảo Phúc nói, “Không được rải thêm nữa.” Các lão hòa thượng ngồi trên giường gỗ khác, vung gậy hò hét, dơ phất trần đập lên giường, hiện thần thông làm chủ tể, đều chỉ là rải cát mà thôi. Thử nói xem, làm sao có thể tránh được?


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12475)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14066)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10823)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10489)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11149)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11962)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13092)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13595)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33607)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11307)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12875)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13014)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11585)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17844)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11381)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11794)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11454)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18930)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12503)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11282)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13109)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15716)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11786)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11659)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12715)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12595)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13915)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12947)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12891)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13256)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12728)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12656)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11697)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11686)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12287)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12345)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19791)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11920)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11959)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16842)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12648)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15015)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16065)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12838)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12189)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11883)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11900)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13117)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16477)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13201)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12445)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11781)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19808)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11121)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11224)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10371)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11057)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10936)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 9998)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11711)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant