Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tắc thứ Bốn Mươi Bốn: Hòa Sơn Biết Đánh Trống

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 16122)
Tắc thứ Bốn Mươi Bốn: Hòa Sơn Biết Đánh Trống

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 5

TẮC THỨ BỐN MƯƠI BỐN

HÒA SƠN BIẾT ĐÁNH TRỐNG

 

CỬ: Hòa Sơn dạy rằng, “Học tập gọi là “văn” (nghe). Tuyệt học gọi là “lân” (gần). Vượt qua hai cái này mới đúng là thực sự vượt qua.” Có ông tăng bước ra hỏi, “Thế nào là thực sự vượt qua?” Hòa Sơn nói, “Biết đánh trống.” Ông tăng lại hỏi, “Thế nào là chân lý cứu cánh?” Hòa Sơn nói, “Biết đánh trống.” Ông tăng lại hỏi, “Tâm là Phật- điều ấy không hỏi. Thế nào là không phải tâm không phải Phật?” Hòa Sơn nói, “Biết đánh trống.” Ông tăng lại hỏi, “ Người hướng thượng đến phải tiếp như thế nào?” Hòa Sơn nói, “Biết đánh trống.”

BÌNH: Hòa Sơn dạy rằng, “Học tập gọi là “văn”. Tuyệt học gọi là “lân”. Vượt qua hai cái này mới đúng là thực sự vượt qua.” Những lời này xuất phát từ bộ Bảo Tạng Luận. Học cho đến mức không còn gì để học nữa gọi là tuyệt học. Cho nên mới có lời nói, “ Nghe ít ngộ sâu, nghe nhiều không ngộ.” Đó gọi là tuyệt học. Nhất Túc Giác (Vĩnh Gia) nói, “Tôi thuở còn trẻ tích tập học vấn, thảo sớ tầm kinh luận. Học tập hết rồi, đó gọi là tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân. Chỉ khi nào đạt đến mức tuyệt học mới là bắt đầu gần với đạo. Khi nào vượt qua cả được hai cái này, mới là thực sự vượt qua.”

Ông tăng cũng thật là thông minh, cho nên mới nêu những lời này ra mà hỏi Hòa Sơn. Hòa Sơn nói, “Biết đánh trống.” đây gọi là ngôn vô vị ngữ vô vị. Muốn thấy công án này, phải là người hướng thượng mới được. Mới thấy rằng những lời này chẳng lien hệ gì đến lý tính, mà cũng chẳng có chỗ để nghị luận. Chỉ hiểu một cách trực tiếp giống như chiếc thùng bị thoát đáy. Chỉ có đó mới là chỗ an ổn của nạp tăng, bắt đầu khế hợp với ý chỉ của Tổ Sư từ tây trúc qua. Cho nên Vân Môn nói, “Tuyết Phong ném bóng, Hòa Sơn đánh trống, chén nước của Quốc Sư, Triệu Châu uống trà. Đều là những cái nêu lên sự việc hướng thượng.”

Ông tăng lại hỏi, “Thế nào là chân lý cứu cánh?” Hòa Sơn nói. “Biết đánh trống.” Trong chân lý cứu cánh chẳng có pháp nào được lập cả. Trong thực tại công ước thì có đủ cả vạn vật. Không có dị biệt giữa (chân lý) cứu cánh và (thực tại) công ước tức là đệ nhất nghĩa đế. Ông tăng lại hỏi, “Tâm là Phật-điều ấy không hỏi. Thế nào là không phải tâm không phải Phật?” Hòa Sơn nói, “Biết đánh trống.” Tâm là Phật thì dễ tìm, còn như đến chỗ không phải tâm không phải Phật, rất có ít người đạt đến chỗ đó được. Ông tăng lại hỏi, “ Lúc có người hướng thượng đến, phải tiếp như thế nào?” Hòa Sơn, nói, “Biết đánh trống.” Hướng thượng nhân là người đã thấu thoát, tự tại.

Bốn câu nói này các nơi coi là tông chỉ. Gọi là bốn pháp đánh trống của Hòa Sơn.

Có ông tăng hỏi Kính Thanh, “Đầu năm còn có Phật pháp hay không?” Kính Thanh nói, “Có”. Ông tăng nói, “Thế nào là Phật pháp lúc đầu năm?” Kính Thanh nói, “Ngày tết mơ phước vạn vật mới mẻ.” Ông tăng nói, “Cám ơn thầy đã trả lời.” Kính Thanh nói, “Hôm nay lão tăng bị thất lợi.” Kính Thanh có mười tám lối đáp “thất lợi” như thế.

Có ông tăng hỏi Tĩnh Quả Đại Sư, “Lúc hạc đứng trên cây tùng trơ vơ thì như thế nào?” Tĩnh Quả nói, “Dưới chân là một vùng bối rối.” Ông tăng lại hỏi, “Lúc tuyết phủ ngàn ngọn núi thì như thế nào?” Tĩnh Quả nói, “Sau khi mặt trời mọc là một vùng bối rối.” Ông tăng lại hỏi, “Lúc xảy ra vụ đàn áp Hội Sương (845) thì các chư thần Hộ Pháp đi đâu?” Tĩnh Quả nói, “ Hai gã đứng ngoài cửa gặp phải một trận bối rối.” Các nơi gọi đó là ba pháp bối rối của Tĩnh Quả.

Bảo Phúc hỏi một ông tăng, “Trong điện là Phật gì vậy?” Ông tăng nói, “ Hòa thượng thử nhìn kỹ xem.” Bảo Phúc nói, “Thích Ca Mâu Ni.” Ông tăng nói, “Đừng lừa dối người khác được không?” Bảo Phúc nói, “Chính là ông đang lừa tôi đấy chứ.” Lại hỏi ông tăng, “Tên ông là gì?” Ông tăng nói, “Hàm Trạch.” Bảo Phúc hỏi, “ Lúc ông gặp phải vũng cạn thì như thế nào?” Ông tăng hỏi, “Ai là vũng cạn?” Bảo Phúc nói, “Là tôi.” Ông tăng nói, “ Hòa thượng đừng có lừa dối người khác được không?” Bảo Phúc nói, “Chính là ông đang lừa tôi đấy chứ.” Lại hỏi ông tăng, “Ông làm nghề gì mà ăn cho đến mập như thế?” Ông tăng nói, “ Hòa thượng cũng đâu còn nhỏ nhoi gì.” Bảo Phúc làm dáng như ngồi chồm hổm. Ông tăng nói, “ Hòa thượng đừng lừa dối người khác được không?” Bảo Phúc nói, “Chính ông đang lừa tôi đấy chứ.” Lại hỏi người coi phòng tắm, “Bồn tắm to bao nhiêu?” Người ấy nói, “Hòa thượng thử đo xem.” Bảo Phúc làm như thể đang đo. Người kia nói, “Hòa thượng đừng lừa dối thiên hạ được không?” Bảo Phúc nói, “Chính ông đang lừa tôi đấy chứ.” Các nơi gọi đây là bốn cách lừa người của Bảo Phúc. Công án này cũng giống như bốn cái thùng đen của Tuyết Phong, đều là các bậc tông sư đời xưa cả. Người nào cũng đưa ra những phương pháp thâm sâu huyền diệu để dậy thiên hạ. Sau đó Tuyết Đậu đưa ra một làn mối dựa vào lời dạy chúng của Vân Môn, rồi tụng công án này.

TỤNG

Một kéo đá,

Hai khiêng đất.

Bật máy cần phải mười cánh cung,

Tượng Cốt Lão Sư từng ném bóng,

Sao giống Hòa Sơn biết đánh trống?

Cho ngài biết,

Đừng sơ hốt.

Ngọt thì ngọt hể đắng thì đắng!

BÌNH: Qui Tông một hôm gọi tất cả chúng ra để kéo đá. Qui Tông hỏi vị duy na đi đâu vậy. Duy na nói, “Đi kéo đá.” Qui Tông nói, “Kéo đá thì tôi cùng kéo với ông, song đừng động vào cội cây ở giữa.”

Mộc Bình mỗi khi có ai mới tới là cũng sai khiêng ba đống đất. Mộc Bình có bài tụng dạy chúng rằng, “Động Sơn đường hẹp Tây Sơn thấp, mới đến phải khiêng ba đống bùn. Các ông trên đường lâu ngày tháng, rõ ràng không thấy lại đâm lạc.” Sau đó có ông tăng hỏi, “Ở trong ba đống không hỏi, thế sự việc ở ngoài ba đống thì như thế nào?” Mộc Bình nói, “Thiết Luân thiên tử cai trị trong hoàn vũ.” Ông tăng nói gì được, Mộc Bình bèn đánh.

Cho nên Tuyết Đậu mới nói, “Một kéo đá, hai khiêng đất.” Bật máy cần phải mười cánh cung.” Tuyết Đậu dùng mười cánh cung để giảng lời nói này, thầy ta muốn thấy chỗ vì người của Hoa Sơn. nếu như gặp mãnh long, hổ lang, dã thú mới dùng cây cùng này. Nếu như là con chim di hay một con vật nhỏ gì đó thì không thể cẩu thả mà bắn ra. Cho nên cánh cung như thế không dùng để bắn chuột.

“Tượng Cốt Lão Sư từng ném bóng.” Có nghĩa là một hôm Tuyết Phong thấy Huyền Sa tới, bèn tung ra ba trái bóng gỗ. Huyền Sa bèn làm dáng như thể vỡ nát, Tuyết Phong hết lòng chấp nhận.

Tuy tất cả những câu chuyện này đều biểu thị toàn cơ đại dụng, song đều không bằng được pháp “biết đáng trống” của Hòa Sơn. Pháp môn này trực tiếp hết sức, song lại khó hiểu vô cùng. Cho nên Tuyết Đậu mới nói, “Sao giống Hòa Sơn biết đánh trống?” Song lại sợ thiên hạ chỉ loay hoay với thoại đầu mà không hiểu lai do, rồi đâm ra sơ hốt. Cho nên thầy ta mới nói, “Cho ngài biết, đừng sỏ hốt!” Phải thực sự đạt đến mức độ này mới được. Nếu như muốn không bối rối thì “Ngọt thì ngọt hể đắng thì đắng.” Tuy rằng Tuyết Đậu niêm lộng như thế, song rốt cuộc cũng nhảy không khỏi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12491)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14092)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10840)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10510)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11167)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11975)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13102)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13609)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33628)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11317)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12888)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13028)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11598)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17863)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11399)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11812)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11464)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18950)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12518)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11305)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13122)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15731)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11792)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11678)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12734)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12614)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13928)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12955)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12907)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13266)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12737)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12662)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11708)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11700)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12308)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12371)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19807)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11939)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11975)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16867)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12657)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15050)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16089)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12858)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12206)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11904)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11914)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13135)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16491)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13218)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12467)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11794)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19821)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11135)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11238)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10392)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11071)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10950)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10018)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11726)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant