Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tắc thứ Sáu Mươi Hai: Viên Ngọc Của Vân Môn

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15211)
Tắc thứ Sáu Mươi Hai: Viên Ngọc Của Vân Môn

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 7

TẮC THỨ SÁU MƯƠI HAI

VIÊN NGỌC CỦA VÂN MÔN

 

THÙY: Bằng vào vô sư trí phát vô tác diệu dụng; bằng vào vô duyên từ[1] làm thiện hữuđiều kiện. Ở trong một câu, có sát có hoạt; Ở trong một cơ, có buông có nắm. Thử nói xem, có ai từng được như thế. Thử nêu lên xem.

CỬ: Vân Môn dạy chúng rằng , bên trong trời đất, ở giữa vũ trụ, có một viên ngọc, ẩn trong núi hình [2]. Cầm đèn giấy đi vào Phật điện, đem tam môn đến đặt trên đèn.

BÌNH: Vân Môn nói, “Bên trong trời đất, ở giữa vũ trụ, có một viên ngọc, ẩn trong núi hình.” Thử nói xem, ý của Vân Môn là ở đầu cần câu hay ở trên đèn giấy? Đây là những lời dựa theo lời của Triệu Pháp Sư[3] trong Bảo Tàng Luận. Vân Môn dẫn ra để dạy chúng. Vào thời hậu Tấn Tăng Triệu ở trong vườn Diêu Tần viết luận. Lúc chép Kinh Duy Ma[4] Tăng Triệu mới biết rằng cái học của Lão Trang chưa tát cạn được cái vi diệu. Tăng Triệu mới lậy ngày La Thập làm thầy. Lại cùng tham học luôn cả với Bạt Đà Bà La (Buddhabhadra) Bồ Tát ở chùa Ngõa Quan, đem tâm ấn của tổ thứ hai mươi bảy từ Tây Trúc qua. Tăng Triệu đạt được chỗ hiểu thâm sâu. Một hôm Tăng Triệu gặp nạn, lúc sắp sửa bị hành hình, xin được hoãn bảy ngày để viết bộ Bảo Tàng Luận.

Vân Môn bèn dẫn bốn câu trong luận ấy để dạy chúng. Đại ý nói rằng làm sao có thể lấy viên ngọc vô giá mà ẩn trong ấm giới? Những lời dậy trong luận ấy đều phù hợp với các lời nói trong tông môn của chúng ta. Há không nghe Kính Thanh hỏi Tào Sơn, “Cái lý của không tất cánh vô thân là như thế nào?” Tào Sơn nói, “Lý thì như thế, còn sự thì như thế nào?” Kính Thanh nói, “Sự với lý đều như nhau cả.” Tào Sơn nói, “Ông có thể lừa Tào Sơn này được, nhưng mà làm sao lừa được mắt của các chư thánh?” Kính Thanh nói, “Nếu như không có mắt của các chư thánh, làm sao biết được nó không như thế?” Tào Sơn nói, “Cứ theo lẽ công thì mũi kim cũng đừng cho lọt, song dựa vào tư tình thì xe ngựa để cũng cho qua.”

Cho nên mới có câu nói rằng, “ Bên trong trời đất, ở giữa vũ trụ có một viên ngọc, ẩn trong núi hình.” Đại ý rằng mọi người ai cũng có đủ, ai cũng viên mãn. Vân Môn nêu lên để dạy chúng, kể đã rõ ràng hết sức, thầy ta không thể nào còn đi chú giải gì thêm cho các ông giống như các giảng sư được cả. Song Vân Môn vốn từ bi cho nên để thâm một cước chú cho các ông rằng, “Cầm đèn giấy đi vào Phật điện, đem tam môn đến đặt trên đèn.”

Thử nói xem, Vân Môn nói như vậy là ngụ ý gì? Há không nghe có bậc cổ nhân nói, “Vô minh thực tínhPhật tính, huyễn hóa không thân là Pháp Thân.”[5] Lại nói, “Phàm tâm tức là Phật tâm.” “Núi hình” tức là tứ đạingũ uẩn. “Có một viên ngọc, ẩn trong núi hình.” Cho nên mới có câu nói, “Chư Phật ở trong tâm, kẻ mê tìm bên ngoài. Ngọc vô giá trong lòng, mà cả đời không biết.” Lại nói rằng, “Phật tính hiển hiện rõ ràng, hữu tình[6] trụ tướng khó thấy. Nếu ngộ chúng sinh vô ngã, tính mình nào khác tính Phật?[7] Tâm là tâm bổn lai, mặt là mặt mẹ sinh. Đá tảng dễ di động , vậy này kh6ng cãi biến.”

Có người nhận cái chiêu chiêu linh linh[8] là viên ngọc quí kia, có điều không đạt được cái dụng cũng như cái diệu của nó. Cho nên chuyển động không được, khai mở không xong. Cổ nhân nói, “Cùng tắc biến, biến tắc thông.”

“Cầm đèn giấy đi vào Phật điện,” nếu như là việc thường tình thì có thể đo lường được. Song “đem tam môn đến đặt trên đèn,” có thể đo lường được chăng? Vân Môn một lúc đã phá tình thức, ý tưởng, đắc thất, thị phi cho các ông. Tuyết Đậu nói, “Tôi thích cái cơ biến mới mẻ của Thiều Dương (Vân Môn), cả đời chỉ lo nhổ đinh bạt chốt cho thiên hạ.”Lại nói, “Chẳng biết mấy người ngồi ghế cao,[9] kiếm sắt chặt đi khiến người thương. ”Khi Vân Môn nói, “Cầm đèn giấy đi vào Phật điện,” chỉ một câu này thôi cũng đủ cắt đứt hết các kiến chấp rồi; lại còn, “đem tam môn đến đặt trên đèn.” Nếu như các ông luận (công án) này thì như đá lửa như điện chớp.

Vân Môn nói, “Nếu như nhất định đi, cố chọn một đường vào. Chư Phật nhiều như vị trần, ở cả dưới chân các ông. Ba tạng thánh giáo, ở trên đầu lưỡi các ông. Song cũng vẫn không bằng được ngộ. Các thầy đừng có vọng tưởng, trời là trời, đất là đất, núi là núi, sông là sông, tăng là tăng, tục là tục.” Sau đó thầy ta lại nói tiếp, “Đem ngọn núi bất động trước mặt các ông đến đây xem.” Có ông tăng bước ra hỏi, “Lúc kẻ học thấy núi là núi sông là sông rồi thì như thế nào?” Vân Môn nói, “Tam môn tại sao lại bắt đầu từ đây?” Sợ các ông chết, cho nên Vân Môn lấy tay vạch một đường rồi nói, “ Nếu hiểu được thì là vị đề hồ, nếu không hiểu được nó lại thành ra độc được.” Cho nên mới có câu nói rằng, “Hiểu hiểu, lúc hiểu rồi chẳng có gì để hiểu. Huyền huyền, chỗ huyền vẫn đáng bị la.”

Tuyết Đậu lại nêu lên nữa, nói rằng, “Bên trong trời đất, ở giữa vũ trụ, có một viên ngọc, ấn trong núi hình. Treo ở trên tường, suốt cả chín năm, chẳng dám nhìn thẳng. Nếu như các nạp tăng bây giờ muốn thấy, ta sẽ đập cho mấy gậy vào lưng sống.”[10] Nhìn xem các bậc tông sư có khả năng, chẳng bao giờ đem thực Pháp ra trói buộc thiên hạ. Huyền Sa nói, “Bẫy rập không giữ được, kêu gọi chẳng quay đầu. Tuy thế vẫn cứ là con rùa thiêng lê lết cái đuôi.” Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG

Nhìn nhìn! 

Bến cũ ai kẻ cầm nhánh câu? 

Mây chập chùng,

Nước miên man.

Hoa lau dưới trăng, hãy tự nhìn.

BÌNH: Nếu hiểu được lời của Vân Môn, các ông mới thấy được chỗ vì người của Tuyết Đậu. Thầy ta bỏ cước chú cho hai lời dạy cuối của Vân Môn rằng, “Nhìn nhìn!” Nếu như các ông hiểu lối trợn mắt nhướng mày, thì chẳng có gì là nhằm nhò cả. Cổ nhân nói, “Linh quang độc chiếu, vượt trên căn trần.[11] Thể lộ chân thường, không nệ văn tự. Tam tính vô nhiểm, vốn tự viên thành. Chỉ lìa vọng duyên, tức như như Phật,” Nếu như cứ ngồi ì ra đó mà trợn mắt nhướng mày, há có thể siêu việt được căn trần sao?

Tuyết Đậu nói, “Nhìn nhìn!” Vân Môn như thể đang cầm nhánh câu trên bến cũ; trong khi mây chập chùng nước miên man. Trăng sáng phản chiếu hoa lau, hoa lau phản chiếu trăng sáng. Chính vào lúc ấy, thử nói xem, đó là cảnh giới gì vậy? Nếu như các ông có thể trực tiếp thấy được, trước sau chỉ giống như một câu mà thôi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12476)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14067)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10823)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10491)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11150)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11963)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13092)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13595)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33607)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11307)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12876)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13016)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11586)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17844)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11381)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11795)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11454)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18930)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12503)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11282)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13109)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15716)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11786)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11659)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12715)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12597)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13915)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12947)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12891)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13256)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12729)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12656)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11697)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11686)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12287)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12346)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19791)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11920)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11959)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16842)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12648)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15017)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16065)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12839)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12189)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11883)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11900)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13117)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16477)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13201)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12445)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11781)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19808)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11122)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11224)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10372)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11057)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10936)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10000)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11711)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant