Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Sáu Mươi Lăm: Ngoại Đạo Hỏi Phật Về Hữu Vô

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15971)
Tắc thứ Sáu Mươi Lăm: Ngoại Đạo Hỏi Phật Về Hữu Vô

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 7

TẮC THỨ SÁU MƯƠI LĂM

NGOẠI ĐẠO HỎI PHẬT VỀ HỮU VÔ

 

THÙY: Hình mà vô tướng, tràn đầy mười phương, dàn trải khắp nơi, vô tâm mà ứng, phổ biến cả đất lẫn biển mà không phiền phức; nêu một hiểu ba, thoáng nhìn mà phân biện cân lượng. Dù cho gậy rơi như mưa, hét vang tựa sấm, vẫn chưa đáng được kể là noi theo được bước chân của bậc hướng thượng. Song thử nói xem, thế nào là việc của kẻ hướng thượng? Thử nêu lên xem.

CỬ: Một ngoại đạo hỏi Phật, “Không hỏi hữu ngôn, không hỏi vô ngôn.” Đức Thế Tôn im lặng. Ngoại đạo tán than rằng, “Thế Tôn đại từ đại bi, khia mở mây mờ cho tôi, khiến tôi có được chỗ vào (đạo).” Sau khi ngoại đạo đi rồi, A Nan hỏi Phật, “Ngoại đạo chứng được gì mà nói có chỗ vào vậy?” Đức Phật nói, “Giống như ngựa tốt, chỉ cần thấy bóng roi cũng chạy rồi.”

BÌNH: Việc này nếu thuộc nơi ngôn ngữ, thì tam tạng mười hai phần giáo há là vô ngôn sao? Có người bảo vô ngôn là đúng. Vậy thì Tổ Sư phải mất công từ Tây Trúc qua để làm gì/ Còn như bao nhiêu công án từ xưa đến nay, rốt cuộc phải hiểu như thế nào? Công án này bị rất nhiều người dựa trên ngôn ngữ mà hiểu. Có người gọi là im lặng, có người gọi là ngồi im, có người gọi là mặc nhiên không đáp. May ma chẳng có gì là nhằm nhò cả. Có mấy ai từng rờ rẫm ra được công án này? Việc này kỳ thực không ở trong ngôn ngữ song cũng chẳng ngoài ngôn ngữ. Nếu như các ông chỉ hơi toan bàn cãi là các ông đã ngàn dặm vạn dặm cách xa rồi. Nhìn xem ngoại đạo kia sau khi tỉnh ngộ rồi, mới biết rằng sự việc không ở đây mà cũng chẳng ở kia, không ở phải mà cũng chẳng ở không phải. Thử nói xem là gì vậy?

Thiên Ý Hoài Hòa Thượng tụng rằng, “Duy Ma chẳng bao giờ im lặng, cứ ngồi bàn cãi thành lỗi lầm. Kiếm sắc trong hợp ánh sáng lạnh, ngoại đạo thiênma đều khoanh tay.” Lúc Bách Trượng Thường hòa thượng tham học với Pháp Nhãn, Pháp Nhãn dạy tham câu nói này. Một hôm Pháp Nhãn hỏi, “Ông quan sát nhân duyên gì vậy?” Thường Hòa Thượng nói, “Ngoại đạo hỏi Phật.” Pháp Nhãn nói, “Ông thử nêu lên cho tôi xem thử xem.” Thường hòa thượng vừa định mở miệng Pháp Nhãn đã nói, “Ngưng, ngưng. Ông toan dựa vào chỗ im lặng mà hiểu chứ gì?” Nghe lời ấy, Thường hòa thượng hốt nhiên đại ngộ. Sau đó dạy chúng rằng, “Bách Trượng có ba yếu quyết: uống trà, tự biết và nghĩ. Nếu như các ông vẫn còn toan lý luận hay tư lương, thì các ông vẫn còn chưa thấu triệt.”

Thúy Nham Chân nêu công án này lên, nói rằng, “Lục hợp cửu hữu, xanh vàng trắng đỏ.”

Ngoại đạo hiểu được bốn bộ kinh Vệ Đà[12]. tự cho mình là người toán tri, đi đâu cũng lôi cuốn thiên hạ vào việc nghị luận. Ngoại đạo đặt câuhỏi, toan làm líu lưỡi đức Phật. Đức Thế Tôn chẳng phí chút tơ hào khí lực nào, ngoại đạo lại tự tỉnh ngộ, tán than rằng, “Thế Tôn đại từ đại bi, khai mở mây mờ cho tôi, khiến tôi có được chỗ vào (đạo).” Thử nói xem, đâu là chỗ đại từ đại bi của Đức Phật? Một con mắt của Thế Tôn thấu suốt ba cõi, hai con ngươi của ngoại đạo quán năm tầng trời.

Qui Sơn Chân Như nêu lên rằng, “Ngoại đạo giấu ngọc trong lòng, Thế Tôn tự đề lên cho. Sâm la hiển hiện, vạn tượng rõ ràng.”

Rốt cuộc ngoại đạo ngộ được cái gì? Giống như thể dồn con chó vào chân tường: đến chỗ cùng rồi thì nó phải quay lại mà nhảy cẫng lên. Nếu như các ông buông bỏ so đo với thị phi một lúc, tinh tấn kiên trì, tự nhiên triệt để.

Sau khi ngoại đoạo đi rồi, A Nan hỏi Phật, “Ngoại đạo chứng được gì mà nói có chỗ vào vậy?” Đức Phật nói, “Giống như con ngựa tốt, chỉ cần thấy bóng roi cũng chạy rồi.” Sau này mọi nơi đều nói rằng công án bị gió thổi thành một điều khác.Lại cũng nói rằng giống như đầu rồng đuôi rắn. Đâu là bóng roi của đức Thế Tôn? Đâu là chỗ thấy bóng roi? Tuyết Đậu nói, “Tà chính không phân, lời từ bóng roi. Chân Như nói, “chuông vàng của A Nan reo hai lần, tứ chúng đều nghe thấy. Tuy là thế, song giống như hai con rồng tranh viên ngọc. Làm trưởng thành con rồng của bậc trí giả kia.” Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG

Cơ luân chưa từng chuyển,

Chuyển ắt chạy hai phía.

Gương sáng bỗng lên đài,

Lập tức phân xấu đẹp.

Xấu đẹp phân hề may đen mở,

Cửa từ ở đâu sinh trần ai?

Nghĩ ngựa tốt thấy bóng roi,

Thiên lý truy phong gọi về được.

Gọi về được, bung tay ba lần.

BÌNH: “Cơ luân chưa từng chuyển, chuyển ắt chạy hai phía.” “Cơ” là linh cơ của ngàn bậc thánh, “ luân” là mệnh mạch từ xưa đến nay của các ông. Há không nghe cổ nhân nói, “ Linh cơ ngàn thánh không để gần, rồng sinh rồng con chớ tò mò. Triệu Châu đoạt được ngọc vô giá, Tần Chúa Tương Như đều táng thân.” Ngoại đạo nắm vững được chủ trì được, chưa từng bao giờ động cả. Tại sao vậy? Ngoại đạo nói, “ Không hỏi hữu ngôn, không hỏi vô ngôn.” Đó há không phải là chỗ toàn cơ sao?

Đức Thế Tôn biết ngắm gió để dương buồm, tùy bệnh cho thuốc, cho nên mới im lặng. Toàn cơ đề lên, ngoại đạo thể hội hoàn toàn. Cơ luân xoay chuyển một cách trơn tru, không xoay về phía hữu mà cũng chẳng xoay về phía vô. Không rơi vào đắc thất, không vướng vào phàm thánh, hai biên chấp bị cắt đứt cùng một lúc. Thế Tôn vừa im lặng, ngoại đạo đã lễ lậy. Người bây giờ phần nhiều nếu không rơi vào vô thì cũng rơi vào hữu; chỉ lăng xăng trong hai thiên chấp hữu vô này mà thôi.

Tuyết Đậu nói, “Gương sáng bỗng lên đài, xấu đẹp lập tức phân.” Cái này chưa từng bao giờ động, chỉ lặng yên như gương sáng trên đài, vạn tượng không tránh được phản ánh trên ấy. Ngoại đạo nói, “Thế Tôn đại từ đại bi khai mở mây mờ cho tôi, khiến tôi có được chỗ vào (đạo).” Thử nói xem chỗ nào là chỗ vào của ngoại đạo? Đến chỗ này rồi các ông cần phải mời người tự tham tự cứu, tự ngộ tự tri mới được. Lúc ấy mới ở khắp mọi nơi dù là đi đứng hay nằm ngồi không hỏi cao thấp lúc nào cũng hiện thành, chẳng di dịch chút tơ hào. Vừa toan so đo lý luận ắt bị bế tắc đến chết người, và không còn chỗ vào nữa.

Phần cuối tụng ”Thế Tôn đại từ đại bi khai mở mây mờ cho tôi, khiến tôi có được chỗ vào.” Thầy ta lập tức phân xấu đẹp. “Xấu đẹp phân hề mây đen mở, cửa từ ở đâu sinh trần ai?” Cả trời đất này là cửa nẻo đại từ đại bi của đức Thế Tôn. Nếu như các ông thấu được chẳng còn đáng để nắm giữ. Đây cũng là cửa nẻo để ngộ. Há không biết rằng đức Thế Tôn tư duy việc này trong hai mươi mốt ngày. “Ta không nên thuyết Pháp, mau nhập niết bàn ngay.”

“Nghĩ ngựa tốt thấy bóng roi, thiên lý truy phong gọi về được. ”Ngựa truy phong” vừa thấy bóng roi là đã vượt ngàn dặm, gọi về là quay về ngay. Tuyết Đậu có ý tán thưởng nói rằng, “ Nếu như tìm được nhựa giống , thì chỉ cần đẩy một cái, nó đã tự xoay chuyển; vừa gọi nó đã quay về. Gọi về được, bung tay ba lần.” Thử nói xem, đây là chấm phá hay là rải cát?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22297)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16024)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15032)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18956)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14450)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18632)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14431)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13588)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13554)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11821)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13262)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13665)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13939)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13252)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15026)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16164)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11084)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16456)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11907)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17599)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12878)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13716)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12865)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14861)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16390)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13128)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12092)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12774)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12918)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12791)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14179)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14121)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16479)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12380)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14389)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11328)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11037)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13195)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13896)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13164)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13006)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13509)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12739)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10234)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13967)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10236)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13705)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16269)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11968)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12980)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11661)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12681)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10799)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11001)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10945)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11899)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12766)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11068)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12621)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11327)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant