Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 4 (tt): Prabhàkarì (Phát quang) hay Adhicitavihàra (Thắng tâm trí)

10 Tháng Mười 201000:00(Xem: 8340)
Chương 4 (tt): Prabhàkarì (Phát quang) hay Adhicitavihàra (Thắng tâm trí)

Prabhàkarì (Phát quang) hay Adhicitavihàra (Thắng tâm trí)

Một vị Bồ-tát sau khi thành tựu Ðịa thứ hai và muốn bước lên Ðịa thứ ba cần phải biết 10 cittàsayas như sau: suddha (thanh tịnh), sthira (kiên trì), nirvid (nhàm chán), aviràga (bất tham), anivrta (bất thối), drdha (mạnh mẽ), uttapta (tinh tấn), atrpta (không bao giờ thỏa mản), udàra (cao thượng), và màhàtmya (đại, lớn).

Trong khi ở Ðịa thứ ba, vị Bồ-tát chứng được sự vật là vô thường, đầy đau khổ, sanh diệt trong từng sát-na, vô thủy vô chung và bị lý nhân duyên chi phối. Vị Bồ-tát hiểu sự đau khổ và chán chường phát sanh từ tham đắm sự vật hữu vi, do vậy chú tâm chứng ngộ cho được Như lai trí (Tathàgatajnàna) (B.Bh. tr. 12-13), trí này không thể nghĩ nghì, vô lượng, vượt ngoài mọi khổ đau, sợ hãi, và chỉ chứng Như lai trí mới cứu độ được các chúng sanh. Rồi vị Bồ-tát lại tu tập thêm 10 cittàsayas (10 tâm y).

Chứng hiểu tình trạng này, vị Bồ-tát lại phát tâm tinh tấn cứu độ mọi chúng sanh. Ngài nghĩ đến mọi phương tiện để cứu độ chúng và thấy rằng chỉ có Anavaranavimoksajnàna (Bất chướng giải thoát trí), và trí này chỉ chứng được nhờ nghe và thực hành Dharma (Pháp). Do vậy, vị Bồ-tát hướng tâm tự mình tu hành trong chánh pháp, cương quyết hy sinh mọi tài sản thế gian và mọi sự thọ hưởng và đương chịu mọi sự khổ cực. (Mtu I. 91-95, vị Bồ-tát sẵn sàng hy sinh tất cả, cho đến sinh mạng, để nghe một câu kệ). Nay Ngài thấy ngữ nghiệpthân nghiệp thanh tịnh chưa đủ, và cần phải thực hành các Dharmas (pháp) và Anudharmas (Tùy pháp). Với mục đích ấy, vị Bồ-tát tu hành các dhyànas (Thiền định, thiền-na), bốn Brahmavihàras (Vô lượng tâm tức là từ, bi, hỷ, xả) và chứng các Abhijnàs (Thắng trí) tức là rddhividha (Thần túc thông), divyasrota (Thiên nhĩ thông), paracittajnàna (Tha tâm thông), pùrvanivàsànusmarana (Túc mạng thông), và divyacaksu (Thiên nhãn thông).

Vị Bồ-tát thấy nhiều đức Phật, nghe thuyết phápvâng theo lời chỉ giáo của chư Phật. Vị ấy biết mọi pháp là không sanh, không diệt, chỉ chịu sự chi phối của lý nhân duyên. Các kiết sử của Kàma (dục), Rùpa (sắc), Bhava (hữu) và Avidya (vô minh) trở thành yếu ớt, những kiết sử do tà kiến đã được đoạn trừ. Vị này đoạn trừ tham, sân, si, và những àsayas sau này được thanh tịnh: ksàntisauratya (nhẫn nhục thuần hậu), akhilyamàdhurya (ngọt ngào không chướng ngại), akopya (không sân hận), aksubhita (không trạo cử), alubhita (không tham), anunnàmàvanàma (không thích thú, không chán nản), sarvakrtapratikrtànamniskànksà (không tham lợi tức những công việc mình làm), asàthyamàyàvità (không lừa dối), và agahanatà (không bí mật che dấu). Trong 4 nhiếp pháp, vị này hết sức thực hành arthacaryà (lợi hành) và trong mười hạnh Ba-la-mật, tu hạnh nhẫn nhục Ba-la-mật, chứ không tu các hạnh khác.

Trong sự diễn tả Ðịa thứ ba này, chúng ta nhận thấy các vị Bồ-tát, ngoài những đặc tánh hy hữu riêng biệt của mình, bắt đầu thực hành tám Dhyànas (Thiền-na), 4 vô lượng tâmsáu thắng trí. Các kiết sử liên hệ đến Kàma (Dục), Rùpa (Sắc), Bhava (Hữu) và Avidyà (Vô minh) trở thành yếu ớtkiết sử liên hệ đến tà kiến đã được đoạn trừ. Tham, sân và si hoàn toàn được trừ diệt.

Trong hệ thống Tiểu thừa cũng vậy, một nhà tu hành, sau khi thành tựu các Sìla (giới), cố gắng tiến lên các cấp bậc cao hơn bằng cách tu hành thiền định để phát triển tâm trí. Tập Visuddhimagga (chương II) nói đầy đủ các chi tiết những phương pháp tu hành được phân loại vào Samàdhi (Thiền định). Ðó là 4 Thiền sắc giới (rupajhàna), 4 vô sắc thiền (arupajhàna), 10 Anussatis (tùy niệm), và 6 abhinnàs (Thắng trí). Tất cả như chúng ta sẽ thấy, đều được nằm vào trong Ðịa thứ ba. Tập Visuddhimagga cũng nói cho chúng ta được biết, một người tu hành, sau khi tu các thiền định, sẽ trở thành một vị Bất lai, nghĩa là một vị không còn sanh vào Dục giới. Vị này đoạn trừ 5 orambhàgiyas: Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, ái và sân, đoạn trừ hoàn toàn tham, sân, si, dứt hẳn Dục lậu và một phần Hữu lậuVô minh lậu (Patis. M, tr.118). Vị này sẽ được hóa sanh và chứng Niết bàn.

Các vị A na hàm (Bất lai) được phân loại thành năm hạng như sau:

1 - Antaràparinibbàyi (Trung bát Niết bàn) = Những vị tu hành để diệt trừ 5 thượng phần kiết sử liền khi mới sanh và trước khi đến nửa tuổi đời.

2 - Upahacca (Sanh bát Niết bàn hay Tổn hại bát Niết bàn hay Upapadya của Kosa) = Những vị tu hành để diệt trừ 5 thượng phần kiết sử sau khi nửa tuổi đời cho đến trước khi gần chết.

3 - Asankhàraparinibbàyì (Vô hành bát Niết bàn) là những vị chứng Niết bàn bằng cách diệt trừ các phiền não không nhiều khó khăn và không nhiều cố gắng. Tập Kosa giải thích là những vị chứng Niết bàn không nhiều cố gắng vì những vị này không tinh tấn (VI, tr.211). Tập Anguttaranikàya (Tăng nhất bộ kinh) giải thích khác hơn. Tập này xem rằng những ai thành tựu Thiền thứ tư, tu hành 5 lực và 5 căn, và chứng Niết bàn trong đời này gọi là asankhàraparinibhàyì. (II, tr.156).

4 - Sasankhàraparinibbàyì (Hữu hành bát Niết bàn) là những vị chứng Niết bàn bằng cách diệt trừ các phiền não một cách nhiều khó khăn và nhiều nỗ lực (Vis. M. tr. 453). Tập Kosa giải thích là những vị chứng Niết bàn không bao giờ sao nhãng sự thực hành vì những vị này rất tinh tấn. Tập Anguttaranikàya giải thích là những vị xem thân thể là asubha (bất tịnh), đồ ăn là gớm ghiếc và mọi pháp hữu vi là ghê tởm. Các vị này suy tư trên tánh vô thường của sự vật và của sự chết và khiến tâm trí được kiên trì. Các vị này tu tập 5 lực và 5 căn (Anguttara, II, tr.156. Kosa VI, tr. 212). Các vị A na hàm (bất lai) hạng 1 và 4 có căn, hạng 2 và 3 có độn căn, hạng 3 và 4 tu Thiền định, còn hạng 1 và 2 thời không nói đến tu Thiền định.

5 - Uddhamsota Akanitthagàmì (Thượng lưu sắc cứu cánh thiên hành) là những vị A la hàm chưa chứng Niết bàn khi còn ở trong Aviha (Vô phiền thiên), tu dần lên cao cho đến khi chứng sắc cứu cánh thiên và từ đấy nhập Niết bàn (xem Kosa - VI, 37, tr. 213 về hai hạng Thượng lưu Ùrdhvassotas: Akanisthagà và Naivasamjnànàsamjnàyatanagà).

Như vậy chúng ta thấy A na hàm Tiểu thừa tương đương với Ðại thừa Ðịa thứ ba.

Sự thực hành các Ðịa thứ tư, thứ năm và thứ sáu tương đương với sự tu hành Adhipannà (Thắng tuệ) của Tiểu thừa. Trong tập Bodhisattvabhùmi, ba Ðịa đặt trong Adhipannàvihàra (Thắng tuệ trú), lý do vì vị Bồ-tát chứng Prajnà (Tuệ) bằng ba phương tiện khác nhau: các pháp Bồ đề phận, Tứ đế và lý Duyên khởi. Cho nên vihàra này được chia làm ba:

1- Bodhipaksyapratisamyuktàdhiprajnàvihàra: Bồ đề phận tương ứng thắng tuệ trú. Sự tu hành trí tuệ theo các pháp Bồ đề phận.

2- Satyapratisamyuktàdhiprajnàvihàra: Ðế tương ứng Thắng tuệ trú. Sự tu hành trí tuệ theo các pháp Tứ đế.

3- Pratityasamutpàdapratisamyukàdhiprajnà: Duyên khởi tương ưng Thắng tuệ trú. Sự tu hành trí tuệ theo Duyên khởi.

Arsismatì (Diệm huệ) hay Bodhipaksyapratisamyuktàdhiprajnàvihàra (Bồ đề phận tương ứng Thắng tuệ trú)

Một vị Bồ-tát đi từ Ðịa thứ ba qua Ðịa thứ tư sau khi chứng 10 Dharmàlokàs (Pháp quang), nghĩa là sau khi chứng hiểu sattvadhàtu (chúng sanh giới), lokadhàtu (thế giới), dharmadhàtu (pháp giới), àkàsadhàtu (không giới), vijnànadhàtu (thức giới), kàmadhàtu (dục giới), rùpadhàtu (sắc giới), àrùpyadhàtu (vô sắc giới), udàràdhyàsa-yàdhimuktidhàtu (cao thượng ý nguyện giới) và màhàtmyàdhyàsayàdhimuktidhàtu (đại ý nguyện giới).

Vị này trở thành một phần tử thuần túy trong đại gia đình Như Lai, nhờ thành tựu những đặc tánh sau này: tám nguyện bất khuất, tín tưởng chân thành vào Tam bảo, nhận thức rõ ràng tánh sanh diệt của các pháp hữu vi, thực hành bất sanh của sự vật, khứ lai của thế giới, của luân hồiNiết bàn, hành động của các chúng sanh trong mọi giới.

Vị Bồ-tát thực hành 4 Nhiếp pháp, cố gắng tạo nhiều công đức hơn nữa, gìn giữ các công đức đã tạo tác và không làm các ác hạnh, thực hành các thần túc, 5 căn, 5 lực, 7 giác chi và 8 đạo. Ở địa này, vị Bồ-tát từ bỏ thân kiến và các tâm sở tương ứng và chỉ làm những hạnh đưa tới chánh giác.

Khi vị Bồ-tát chứng được các đặc tánh của Ðịa này, tâm trí trở thành uyển chuyển hơn, các nguyện mạnh mẽ hơn, lòng từ đối với chúng sanh lớn hơn và kết quả là vị Bồ-tát càng ngày càng tinh tấn. Các nghi vấn được tiêu trừ và các cittàsayas trở thành vô lượng.

Nay vị Bồ-tát thọ giới, các Kusalamùlas (căn bản thiện) càng ngày càng trong sạch. Trong 4 Nhiếp pháp, vị này phát triển Samànàthatà (Ðồng sự), và thực hành Vìryapàranimità (tinh tấn Ba-la-mật) của 10 Ba-la-mật.

Sudubjàya hay Satyapratisamyuktàdhiprajnàvihàra (Nan thắng địa hay đế tương ứng thắng tuệ trú)

Vị Bồ-tát đi từ Ðịa thứ tư đến Ðịa thứ năm bằng cách tu tập cittàsayavisuddhisamatà (thanh tịnh bình đẳng tâm nguyện), liên hệ đến 10 vấn đề như sau: giáo lý của chư Phật quá khứ, hiện tại và tương lai, giới, định, đoạn trừ tà kiến và nghi, hiểu hết chánh đạotà đạo, thực hành các phẩm Bồ đ? giác chi và bổn phận nâng cao đời sống giới hạnh của chúng sanh.

Trong Ðịa này, do sự thực hành liên tục các pháp trợ đạo khác, sự chứng đắc một tâm ý còn thanh tịnh hơn sự giác ngộ chơn như tánh (tathàtva) của mọi pháp vàsự tăng trưởng nguyện lực của mình, lòng từ bi v.v..., vị Bồ-tát hiểu lý Tứ đếtrở thành tinh luyện trong sự hiểu biết về:

- Samvrti (Tục đế), nhờ lo lắng đến sự ao ước mong mỏi của các chúng sanh khác;

- Paramàrtha (Chơn đế), nhờ chỉ thực hiện một con đường (Màrga=Ðạo);

- Sự thật về tướng (laksana), nhờ chứng được những đặc tánh di độngđặc biệt của sự vật (svasàmànyalaksana);

- Sự thật về phân tích (vibhàya), nhờ biết sự chia chẻ các pháp;

- Sự thật về đoạn trừ (nistìrana), nhờ biết điều kiện các uẩn, xứ, v.v...

- Sự thật về sự vật (vastu), nhờ để thân tâm chịu đựng mọi phiền não;

- Sự thật về sanh khởi (prabhava), nhờ các thọ sanh;

- Sự thật về diệt và bất sanh (ksayànutpàda), do sự đoạn diệt hoàn toàn mọi sự đau khổ;

- Sự thật về hiểu biết con đường (màrgajnànàvatàra= Ðạo trí nhập); và

- Sự thật về sự tập khởi Như lai trí (Tathàgatajnànasamudaya), nhờ giác ngộ thực trí trong mọi chi tiết và nhờ theo Bồ-tát địa (bodhisattvabhù mis).

Nhờ biết sự thật, vị Bồ-tát giác ngộ được mọi pháp hữu vivô ngã, không thật có, thương xót chúng sanh ngu xuẩn, phải chịu luân hồi sanh tử và khổ đau vì không biết sự thật. Vị Bồ-tát phát nguyện hồi hướng tất cả công đức của mình cho hạnh phúc, sự tu tậpsự giải thoát cuối cùng cho mọi loài chúng sanh.

Trong Ðịa này, vị Bồ-tát trở thành smrtimàn, nghĩa là không bị hoang mang; matimàn, vì có thanh tịnh trí; gatimàn, vì hiểu một bản kinh được thuyết vị mục đích gì, hrìmàn, tự bảo trì cho mình và cho người khác; dhrtimàn, vì thực hành các giới luật, và buddhimàn, vì tinh luyện trong việc xác chứng cái gì thích hợp hay không thích hợp và nhiều sự việc khác nữa. Lòng ao ước và chí nhiệt thành muốn được thêm công đức càng ngày càng mãnh liệt hơn. Vị Bồ-tát làm mọi người hoan hỷ bằng cách thực hành 4 nhiếp pháp, hiện diện bằng sắc thân, bằng thuyết pháp về các hạnh Ba-la-mật, về Ðại tánh của Như Lai, về các ác hạnh của thế giới, về công đức thành tựu Phật trí và về làm các thần thông. Muốn tuyên dương Phật pháp, vị Bồ-tát cũng học các thế pháp như toán học, y học, thi văn, kịch nghệ, kỹ thuật làm sắt, thiên văn học v.v...

Vị Bồ-tát diện kiến các đức Phật, nghe các Ngài thuyết pháp, từ bỏ thế tụctrở thành một vị Dharmabhànaka (thuyết pháp). Trong 10 Ba-la-mật vị Bồ-tát ưa nhất Thiền Ba-la-mật.

Abhimukhì (Hiện tiền địa) hay Pratiyasamutpàdapratisamyuktàdhiprajnàvihàra (Duyên khởi tương ưng thượng trí trú)

Vị Bồ-tát, sau khi thành tựu các Màrgas (Ðạo), bước qua Ðịa thứ sáu và chứng 10 bình đẳng tánh, nghĩa là các pháp đều bình đẳng vì các pháp là:

1) animitta (vô tướng),
2) alaksana (vô tánh),
3) anutpàda (vô khởi),
4) ajàta (vô sanh),
5) vivikta (thoát lý),
6) àdivisuddha (thanh tịnh từ ban đầu),
7) nisprapanca (vô hý luận),
8) ànyùha-niryùha (bất thủ, bất xả),
9) màyàsvapnapratibhasapratisrutkopamrà (giống như huyễn mộng, vọng thanh),
10) bhàvàbhàvàdvaya (phi hữu phi vô).

Nhờ quán sát sự vật như vậy, vì Bồ-tát, nhờ thâm tín, lên được Ðịa thứ sáu, nhưng chưa chứng anutpattikadharmaksànti (vô sanh pháp nhẫn=tin sự vật tự tánhbất sanh). Vì nặng lòng Ðại từ, vị Bồ-tát thương xót các chúng sanh, vì vô minh che lấp, xem sự vật ở đời là có sanh, có diệt và có ngã. Vì không hiểu sự thật, chúng theo tà đạo, bị thiện và bất thiện chi phối, và do vậy có những abhisamskàras (hành). Tâm chủng tử (cittabìja) do hành tạo ra trở thành lậu nhiễm (sàsrava), đầy những chấp thủ (upàdàna), và tạo ra sanh, lão tửtái sanh. Rồi do thức thuộc về karmaksetra (Nghiệp điền), tức là vô minh và ái, một lưới tà kiến được dệt vào, và từ đó sinh ra nàmarùpa (danh sắc); từ danh sắc, tiếp tục khởi lên 5 giác quan, xúc, thọ, thụ hưởng (abhinandana), tương ưng với trsna (ái), upàdàna (thủ) bhava (hữu), và 5 uẩn phân chia theo 5 loại chúng sanh (gatipancaka). Các chúng sanh này rồi rơi vào lão, ưu bi khổ não v.v... Vị Bồ-tát hiểu rằng không có người tạo ra những điều trên, vì mọi sự vật tự tánh không được tạo sanh bởi sức mạnh nào hết (anàbhoga, sàntilaksana), rồi diệt mất và không có ai diệt chúng. Vị Bồ-tát lại chứng ngộ, không hiểu sự thật tối thượngvô minhvô minh là nhân phát sinh hành (samkàra), hành phát sinh tâm thức (citta-vijnàna), đầu tiên câu hữu với 4 thủ uẩn (upàdàna- skandha), từ đấy sanh ra danh sắc (nàma-rùpa) và dắt dẫn đến khổ uẩn. Cây đau khổ khởi lên, không có người tạo tác hay thọ hưởng (kàrakavedakasahita). Cho nên vị Bồ-tát chứng ngộ ba giới là duy thức (cittamàtram yad idam tràidhàtu kam).

Do hiểu lý nhân duyên từ mười vị trí, và vì tin tưởng không có người làm hay người thọ hưởng, không có vị tạo chủ (asvàmika), và mọi sự vật đều bị lý nhân duyên chi phối, không có thực chất, xa lìa tất cả và tự tánh không hiện hữu, vị Bồ-tát chứng được sùnyatà-vimoksamukha (thoát lý khỏikhông tánh). Do hiểu được các bhavangas (những móc nối trong dây chuyền nhân duyên) tự tánhđoạn diệt (svabhàva-nirodha), vị Bồ-tát không phân biệt dharmanimitta (pháp tướng) nào và như vậy chứng được animitta-vimoksamukha (vô tướng giải thoát). Cuối cùng, nhờ hiểu được sùnyatà (không tướng) và animittatà (vô tướng) của tất cả bhavangas, vị Bồ-tát thật tình không thấy sự giải thoát gì (vimoksa), dù hình như tỏ ra đang làm như vậy vì lòng thương xót vô lượng chúng sanh; nhờ vậy, vị này chứng được apranihita-vimoksamukha (vô nguyện giải thoát). Luôn luôn đề cao lòng đại từ, vị Bồ-tát thành tựu viên mãn các phẩm trợ đạo còn lại, và tin tưởng các samskàras được tác thành bởi những phần tửtự tánhbất sanh bất diệt, vị Bồ-tát hướng tâm về Asangajnàna (vô tham diệu trí), gọi là Prajnàpàramitavihàra (Bát nhã Ba-la-mật trú) và tu tập phát triển trí ấy một cách mạnh mẽ. Nay vị Bồ-tát tu hành mọi loại thiền định về sùnyatà (hư không), animitta (vô tướng) và apranihita (vô nguyện) và tu tập 10 àsayas để tiến dần lên các quả vị cao hơn và khỏi có thể rơi vào Thanh văn hay Ðộc giác. Trong 10 Ba-la-mật, vị Bồ-tát tu tập Bát nhã Ba-la-mật.

Một vị Bồ-tát nhờ đi ngang qua các Ðịa này, chứng được mọi đặc tánh của vị A-la-hán, ngoài những đặc tánh cần thiết cho một vị Bồ-tát. Nay vị Bồ-tát trở thành một vị A-la-hán, vì như tập Lankàvatàra (nhập Lăng già) đã nói, vị Bồ-tát đã thoát khỏi mọi vọng tưởng (vikalpa) về dhyàna (thiền), dheya (đối tượng của thiền), samàdhi (định), vimoksa (giải thoát), bala (lực), abhijnà (thắng trí), klesa (phiền não) và Dukkha (khổ).

Theo các nhà Tiểu thừa, người tu hành khi thành tựu các hạnh Bát nhã, trở thành một vị A-la-hán. Ngài Buddhaghosa dành 20 chương cuối của tập Visuddhimagga để giải thích mọi vấn đề liên quan đến Pannàbhùmi (Bát nhã địa). Trong Ðịa này (Vis, tr.443-587) người tu hành được xem là phải nghiên cứu, phân tích 5 uẩn, 12 xứ, 20 căn, 4 đế và 12 nhân duyên. Ðây chỉ là bước đầu của sự tu tập về Pannàbhùmi. Nhờ các pháp môn này, người tu hành thành tựu viên mãn Bhàvanàmàrga (Tu đạo vị). Chúng ta đã thấy, tu đạo vị bắt đầu từ sát-na thứ 16, nghĩa là sát-na cuối cùng của Darsana-màrga (Kiến đạo vị) khi người tu hành trở thành bậc Dự lưu (srotàpanna). Như vậy người tu hành, trong khi tiến dần qua các vị trí giải thoát, thành tựu viên mãn giới thanh tịnh và định thanh tịnh và một phần tuệ thanh tịnh. Các Visuddhis (thanh tịnh vị) này như được phân loại trong tập Visuddhimagga (tr. 443, 587 v.v...) và tập Abhidhammatthasangaha (Comp. Of Phil. Tr.65 v.v...) gồm có Ditthivisuddhi (Kiến thanh tịnh), Kankhàvitaranavimsudhi (Ðoạn nghi thanh tịnh: 16 loại nghi thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai đều được diệt trừ), Maggàmagganànadassanavisudbhi (Ðạo phi đạo tu kiến thanh tịnh: Thanh tịnh do tri kiến phân biệt rõ ràng chánh đạophi đạo), Patipadànàna dassanavisuddhi (Hành đạo tri kiến thanh tịnh = Tri kiến thanh tịnh trong khi hành đạo) và nànadassanavisuddhi (Tri kiến thanh tịnh) (Ngài Buddhaghosa gọi 5 visuddhi này là sarìra (thân) và sìla và cittavisuddhi là mùla (căn bản), Vis. M. tr.443).

Trong giai đoạn A-la-hán, vị tu hành đoạn trừ 5 thượng phần kiết sử còn lại, mọi phiền não (kilesas), lậu hoặc (àsavas) và cuối cùng hiểu rõ chân ý nghĩa của 4 Ðế, nghĩa là được giác ngộ, tâm trí hoàn toàn giải thoát. Vị Bồ-tát không còn phải tái sanh và sẽ chứng Niết bàn. Sự giải thoát này của các vị A-la-hán cũng được các tác phẩm Prajnàpàramità và các phẩm Ðại thừa khác xác nhận. Ðoạn văn được tả đại khái như sau: một vị A-la-hán là ksìnàsrava (lậu hoặc trừ), Nisklesa (phiền não đoạn), Vasìbhùta (tự điều tự phục), Suvimuktacitta (tâm trí giải thoát), Suvimuktaprajnà (trí tuệ giải thoát), àjàneya (khó được tác thành), Kstakrtya (đã làm những việc đáng làm) Apahrtabhàra (đã hạ xuống gánh nặng 5 uẩn), Anupràptasvakàrtha (thành tựu viên mãn mục đích đời sống) và Pariksìnabhavasamyojana (giải thoát mọi kiết sử tái sanh).

Tương đương với hai hạng Dự lưu gọi là Saddhànusàrì (Tín hành) và Dhammànusàrì (Pháp hành), các vị A-la-hán cũng được chia thành hai hạng: Ubhatobhàgavimukta (Song phần nhập tâm giải thoát) và Pannàvimutta (Huệ giải thoát). Hạng đầu là những vị đã thành tựu 8 giải thoátdiệt trừ các lậu hoặc nhờ trí tuệ (Pannà). Hạng thứ hai là những vị chưa thành tựu 8 giải thoát nhưng đã đoạn trừ các lậu hoặc nhờ trí tuệ.

Hình như tất cả các vị A-la-hán không chứng được Patisambhidàs (Vô ngại giải), còn vị Bồ-tát thành tựu pháp này cùng với các pháp khác, vào địa thứ chín. Chúng ta cũng thường tìm thấy một vị A-la-hán chứng được Patisambhidàs thường được đặc biệt diễn tả là Sahapatisambhidà arahattampàpuni (thành tựu A-la-hán quả với vô ngại giải).

Với địa thứ sáu, sự so sánh giữa các vị thứ Tiểu thừa và Ðại thừa của chúng ta được chấm dứt. 4 Ðịa còn lại không liên hệ gì với phương pháp tu hành Tiểu thừa và các quả vị mà một vị Bồ-tát cố gắng thực hành các công hạnh thuộc 4 Ðịa này không được các nhà Tiểu thừa biết đến. Từ Ðịa thứ bảy trở đi, thật sự bắt đầu sự cố gắng của vị Bồ-tát để chứng Dharmasùnyatà (Pháp không). Nirnimittatà (Vô tướng) của sự vật do chúng ta nhận thức. Và bốn địa sau cùng chỉ nêu rõ sự phát triển tuần tự trí tuệ của vị Bồ-tát cho đến khi chứng được Tathàgatabhùmi (Như lai Ðịa). Ở Ðịa này, vị Bồ-tát trở thành đức Như Lai viên mãn và đồng nhất với các đức Như Lai khác. Các vị Tiểu thừa lẽ dĩ nhiên đặt đức Phật lên địa vị tối cao với những thần lực và siêu tánh đặc biệt, một số thần lực và siêu tánh này được tìm thấy trong 4 Ðịa cuối cùng.

Dùrangamà (viễn hành địa) hay Sàbhisamskàrasàbhoganirnimitavihàra

Một vị Bồ-tát, sau khi thành tựu Bồ-tát đạo, bước vào Ðịa thứ bảy. Vị này bắt đầu bước vào một con đường khác biệt, cao thượng hơn và được 10 loại Upayaprajnàjnàna (Phương tiện Bát nhã trí) (B. Bh, tr.19) như sau: Vị Bồ-tát:

I- (a) Chứng được một tâm trí thành thực tự quán chơn không, vô tướng, vô nguyện; (b) tỏ ra như đã thành tựu vô lượng công đứctrí tuệ.

II- (a) Hiểu vô ngã tánh của mọi pháp; (b) không từ bỏ 4 vô lượng tâm: từ, bi, hỷ, xả.

III- (a) Lựa chọn những công đức thù thắng nhất; (b) không bám vào bất cứ pháp nào.

IV- (a) an trú thoát ly khỏi ba giới; (b) nêu rõ những việc mình làm trong ba giới.

V- (a) Tự giải thoát hoàn toàn mọi phiền não; (b) làm mọi hạnh nghiệp cần thiết để loại trừ tham sân của mọi chúng sanh.

VI- (a) Chứng được tánh bất nhị (advaya) của mọi sự vật như là bào ảnh, tiếng vọng; (b) nêu rõ những hoạt động sai khác, những phân biệtvô lượng đại nguyện của mình.

VII- Phát triển một tâm trí ý thức được bình đẳng tánh của mọi Phật sát.

VIII- (a) Thể nhập vào pháp thân của mọi đức Phật; (b) cũng hiện sắc thân với các tướng sai biệt.

IX- Chứng được tiếng nói của Như Lai; và

X- (a) Trong một sát-na, phân biệt được quá khứ, hiện tại, vị lai (ekaksanatryadhvànubodham); (b) hiện thân trải qua nhiều kiếp để cứu độ mọi loài.

Cho đến một sát-na, không bao giờ rời khỏi màrgaabhinirhàra (hành động hệ thuộc về con đường) và jnànàbhinirrhàra (hành động hệ thuộc về trí). Vị Bồ-tát thành tựu mọi Ba-la-mật và 4 nhiếp pháp, bốn adhisthànas (Tứ đức xứ) và 37 Bồ đề phận: Vị Bồ-tát thành tựu thân nghiệp, khẩu nghiệp thanh tịnh, liên hệ với Bồ-tát nguyện, 10 thiện hạnh các đức Phật và làm mọi thế sự liên quan đến nghệ thuật và công nghệ (silpasthàna-karmasthàna) đã được thành tựu trong Ðịa thứ năm. Nay vị Bồ-tát trở thành Ðạo sư cho ba giới, và không ai có thể sánh bằng về àsaya (hướng), prayoga (tinh tấn), lẽ dĩ nhiên trừ các vị Bồ-tát ở các Ðịa cao hơn. Vị Bồ-tát này có trước mặt mình tất cả dhyànas (thiền), samàdhis (định), samàpattis (thành tựu pháp), abhijnàs (thắng trí), và vimoksas (giải thoát), các pháp này sẽ được vị Bồ-tát thành tựu trong các Ðịa kế tiếp. Nay vị Bồ-tát tu hành nhiều thiền định (samàdhi), vượt khỏi các Thanh văn Ðịa và Ðộc giác Ðịa, và tiến gần đến Prajnàjnànavicàranabhùmi (Bát nhã trí biện sát địa) (Dasa; tr. 60)

Vị Bồ-tát chứng Nirodha (Diệt) trong Ðịa thứ sáu, và trong Ðịa thứ bảy, vị này nhập vào và xuất ra Nirodha, nhưng đừng tưởng lầm vị ấy bị Nirodha chi phối, vì đã vượt lên trên Vitarkadosa (Tầm quá = suy tầm sai lạc) của vị Thanh văn nghĩa là xem Nirodha (Diệt) như là samskrtàtyantà vyupasama (sự đoạn diệt rốt ráo các pháp hữu vi). Ðây là một ưu điểm của các vị Bồ-tát là những vị này đạt tới và an trú trong Bhutàkotivihàra (Trú ư chân tế: trạng thái cuối cùng cóthể có được của loài hữu tình), nhưng không bao giờ bị Nirodha chi phối.

Ðầy đủ với Ðại lực, thiền địnhphương tiện trí, vị Bồ-tát hiện ra ở đời, nêu rõ đại nguyện của mình hướng đến Niết bàn, và luôn luôn có một số lớn đệ tử bao vây, nhưng vị Bồ-tát thoát ly tất cả, không bị chi phối ảnh hưởng gì. Do nguyện lực (pranidhàna) của mình, vị Bồ-tát hiện ra trong ba giới (tri-dhàtu) để cứu khổ chúng sanh, nhưng không bị nhiễm ô bởi thế tình. Dù có Phật trí, vị Bồ-tát tự tỏ như mình thuộc Thanh văn thừa hay Ðộc giác thừa cho đến như bị lưới màra bao vây và bị ngoại đạo chi phối, hoặc tự ly khai chánh pháp, theo lễ nghi thế tục hay hưởng những lạc thú nhân thiên.

Vị Bồ-tát diện kiến nhiều đức Phật, nghe phápvâng theo lời chỉ dạy của các Ngài. Lòng tin của vị Bồ-tát vào Gambhìradharmaksànti (thâm pháp nhẫn) được thanh tịnh. Vị này thực hành hạnh Upàyakausalya pàramità (Phương tiện thiện xảo Ba-la-mật).

Acalà (Bất động Ðịa) hay Anàbhoganirnimitta-vihàra (Vô quán vô tướng trú)

Một vị Bồ-tát, sau khi thành tựu bảy Ðịa, làm cho Màrga (Ðạo) thanh tịnh nhờ trí và phương tiện chất chứa công đức, phát đại nguyện, an trú vào bốn adhisthàna: Tứ đức xứ (satya, tyàga, upasama và prajnà= chân, thí, tịch và trí) v.v..., vị Bồ-tát hiểu mọi pháp là bất sanh, bất diệt, bất tăng, bất giảm, tự tánh không thật có, chủng thỉ bổn mạt đều giống nhau. Tóm lại, vị Bồ-tát hiểu được Tathatà (như thực tánh) của mọi vật. Vị này vượt qua mọi biến kế sở chấp do tâm và thức cấu tạo, biết được mọi pháp giống như hư không và nhờ vậy an trú vào Anutpattikadharmaksànti (Vô sanh pháp nhẫn) (B. Bh. Tr.21. Mtu; tr.136); khi chứng được Ksànti (nhẫn), vị ấy an trú vào Ðịa thứ tám (Acalà) và vượt ngoài mọi thọ hưởng. Vị Bồ-tát chứng các pháp là Anàbhoga (Bất tư duy, vô quán niệm), do vậy không có âu lo, vì sự vật liên hệ đến thân, khẩu, ý đều giải thoát khỏi mọi biến kế sở chấpan trú trong Vipàka-dharma (Dị thục pháp). Sự thật, vị Bồ-tát không thực hành giới pháp của chư Phật, chư vị Bồ-tát và Thanh văn.

Nay chư Phật bảo vị Bồ-tát phải thành tựu 10 lực, 4 vô sở úy từ trước chưa chứng đắcđể ý đến trạng thái bất an, si mê, phiền não về tâm trí của chúng sanh. Rồi vị Bồ-tát được nhắc lại một trong những đại nguyện xưa của mình là Pháp tánh (Dharmatà, tánh bất sanh, bất trú, bất diệt của các pháp), không phải chỉ riêng cho đức Như Lai, mà các vị Thanh văn, Ðộc giác đều phải chứng ngộ. Chư Phật lại khuyên vị Bồ-tát cố gắng để được như các Ngài vô lượng thân, trí, thế giới, hào quang, âm thanhtứ chi thanh tịnh, pháp giới, Phật sát, chúng sanhvô lượng vô số pháp khắp mười phương thế giới. Sự chứng đắc những pháp "vô lượng" như vậy, rất có giá trị, thắng xa mọi công đứctrí đức chứng được trong 7 Ðịa trước, vì mọi công đứctrí đức từ trước chứng được là do sự tinh tấn dụng công (sàbhoga-karmanà), còn trong Ðịa này, các công đứctrí đức tự nhiên chứng được.

Vì chứng được một cách tự nhiên thiện xảo phương tiện trí (upàyakausalyajnàna) và tùy thuộc kết quả sự cố gắng để chứng nhất thế trí, vị Bồ-tát biết được như thế nào và khi nào một thế giới được tác thành, tiếp tục tồn tại rồi hoại diệt và nghiệp nào chịu trách nhiệm kết quả ấy. Vị Bồ-tát biết được như thế nào và khi nào một thế giới được tác thành, tiếp tục tồn tại rồi hoại diệt và nghiệp nào chịu trách nhiệm kết quả ấy. Vị Bồ-tát biết được mọi chi tiết lớn nhỏ của 4 Ðại: địa thủy hỏa phong, các loại chúng sanhnghiệp quả của chúng. Sự hiểu hết chi ly như vậy rất cần cho vị Bồ-tát, vì vị này phải hiện ra giữa các chúng sanh, thật giống một loại chúng sanh để cho các chúng sanh cảm thấy vị ấy là một loại với chúng và mỗi chúng sanh đều cảm thấy có thể thành Phật.

Vị Bồ-tát phát triển 10 vasitàs (tự tại) đối với àyu (tuổi thọ), cetas (tâm trí), pariskàra (tài vật), karma (nghiệp), upapatti (sanh), adhimukti (giải thoát), pranidhànà (nguyện), rddhi (thần thông), dharma (pháp) và jnàna (trí).

Vị Bồ-tát trong giai đoạn này được xem như chứng được vô lượng, vô biên, vô tỷ trí tuệ và hạnh nghiệp bao giờ cũng trong sạch. Nay vị Bồ-tát thành tựu được các pranidhànas (nguyện), adhisthànas (đức trú), pàramitas (Ba-la-mật), mahàmaitri (Ðại từ), mahà karunà (Ðại bi), dhàranà (tổng trì), pratibhàna (biện tài) v.v...Tóm lại, tất cả các pháp thành tựu một đức Phật. Do vậy, địa này được gọi là Acalà (Bất động) và vị Bồ-tát không thể thối lui địa này (avivartyabhùmi). Nay vị Bồ-tát trở thành một đơn vị trong gia đình Như Lai, và có thể được xem thuộc gia tộc đức Phật. Từ nay, vị Bồ-tát luôn luôn được chư thiên và thần kim cang hầu cận.

Sàdhumatì (Thiện tuệ) hay Pratisamvidvihàra (Vô ngại biện trú)

Vị Bồ-tát sau khi thành tựu và phát triển vô lượng trí, các tổng trí, thiền định, thượng trí, hiểu biết chi ly các thế giới, lực, và các vô sở úy của đức Như Lai đã nói trong Ðịa trước, nay bước vào Ðịa thứ chín. Trong giai đoạn này, vị Bồ-tát biết đúng đắn các pháp là thiện, bất thiện hay vô ký, thanh tịnh hay không thanh tịnh, thế tục hay siêu việt, tưởng tượng hay không thể tưởng tượng, định pháp hay bất định pháp, hữu vi hay vô vi. Vị Bồ-tát biết những bổn phận của Thanh văn, Ðộc giác, Bồ-tát và Như Lai Ðịa. Nhờ thông minh như vậy, vị Bồ-tát biết một cách đúng đắn những tập tục hay đặc tánh tư tưởng của chúng sanh, những phiền não, hạnh nghiệp, căn, nguyện, giới (dhàtu), ao ướcý định (àsayànusaya), tái sanh tùy theo ước muốn (vàsanànusandhi) và những ràsis (gotra=chủng tộc) của những chúng sanh này. Vị Bồ-tát biết tánh sai biệt của các tâm trí, phiền não và nghiệp v.v...

Vị Bồ-tát trong Ðịa này đã có thể biết một cách tỷ mỉ mục đích và những đức tánh của mỗi một chúng sanh và có thể quyết định phương pháp hướng dẫn một chúng sanh đến đích. Do vậy, vị Bồ-tát thay đổi phương pháp giáo huấn của mình tùy theo sự nhận xét của mình.

Vị Bồ-tát cũng đóng vai một vị Dharmabhànaka (giảng pháp sư) để gìn giữ lời dạy của bậc Ðạo sư. Vì vô lượng trí tuệ của mình, vị Bồ-tát giảng pháp theo nhiều phương phápáp dụng 4 pháp vô ngại biện. Nhờ dùng 4 pháp biện tài này và hoạt động như một Pháp sư, vị Bồ-tát trở thành một kho tàng gìn giữ lời dạy chánh pháp. Ðầy đủ những dhàranis (tổng trí) và pratibhànas (thuyết pháp), vị Bồ-tát thuyết pháp cho chúng sanh trong mọi thế giớiphương pháp giảng dạy rất linh động và khác biệt.

Cũng trong Ðịa này, vị Bồ-tát vẫn tu tập trên con đường tiến triển tâm linh và không bao giờ ra khỏi tầm mắt của chư Phật. Vị Bồ-tát tu tập hạnh balapàramità (lực Ba-la-mật). Nếu muốn, vị Bồ-tát này có thể trở thành Mahà-Brahmà (Ðại phạm thiên).

Dharmamehgà (Pháp vân địa) hay Parama-vihàra (Tối thượng trú)

Vị Bồ-tát, khi thành tựu các bổn phận trong Ðịa thứ chín, bước vào Ðịa thứ mười. Nay vị Bồ-tát điêu luyện trong vô số thiền định, và nhờ vậy, một hoa sen huy hoàng và to lớn hiện ra, và vị Bồ-tát tự thấy mình ngồi trên đài sen ấy, với thân hào quang sáng chói và nhập định Sarvajnàjnàna Visesàbhiseka (Nhất thể trí tri), xung quanhvô số Bồ-tát còn ở trong chín Ðịa trước bao vây và hướng nhìn đến mình. Hào quang tự thân chiếu sáng và khiến mọi chúng sanh hoan hỷ. Khi vị Bồ-tát ngồi trên tòa sen, hào quang từ các đức Như Lai chiếu đến và tấn phong vị Bồ-tát thành Samyasambuddha (chánh đẳng giác), đầy đủ nhất thế trí và do vậy, Ðịa này được gọi là Abhisekabhùmi (Quán đảnh địa).

Nay vị này biết rõ ràng thế giới các pháp thế gian sanh diệt như thế nào, vô lượng hạnh của một đức Phật, vô lượng giải thoát môn của vị Bồ-tát (Bodhisattva-vimoksa mukha), các thiền định và các chú thuật dharani v.v... Nay vị ấy được cụ túc Smrti-kausalya (Niệm thiện xảo) nên có thể thâu nhận tất cả mây pháp (Dharmamegha) do vô lượng Phật thấm nhuần. Vị này có thể vận dụng mọi loại thần thông. Ở trong Ðịa này, vị Bồ-tát phát huy jnâna-pàramita (Trí Ba-la-mật).

Chính sau Ðịa thứ mười mà một vị Bồ-tát trở thành đức Như Lai (Tathàgata), và do vậy tập Lankàvatàra (Nhập lăng già) gọi Ðịa này là Tathàgatabhùmi (Như lai Ðịa). Tập Satasàhasrikà (Bách thiên tụng tạng 1472) cũng ghi nhận một vị Bồ-tát ở địa thứ 10 được gọi là Tathàgata (Như lai).

văn học Tiểu thừa, không có đề cập đến 4 địa sau cùng. Quan niệm một đức Phật đến với các nhà Tiểu thừa còn rất mơ hồ, vì quan niệm vị Bồ-tát chỉ được văn học Tiểu thừa chấp nhận một cách rất chậm trễ, và rất có thể là bị ảnh hưởng của các tư tưởng Ðại thừa. Các nhà Tiểu thừa cẩn thận tránh xa tất cả quan điểm hình nhi thượng học của các nhà Ðại thừa về các vị Bồ-tát và chư Phật. Tuy vậy các nhà Tiểu thừa không giữ được cùng một thái độ đối với các mẩu chuyện thần thoại, thuần tín ngưỡng cùng tin về các đời sống củachư vị Bồ-tát. Các nhà Tiểu thừa, trung thành với triết thuyết của mình, chỉ chấp nhận vào trong văn học các vị này, một đời sống đức Phật, bắt đầu bằng một mẩu chuyện ngắn của đời sống tiền thân của vị Bồ-tát, dươi nhan đề Dùrenidàna và Avidurenidàna (Viễn nhân duyên và cực Viễn nhân Duyên), hay Nidàna này chỉ là tóm lược các mẩu chuyện rất phổ thông trong hàng Ðại thừa. Và có những bằng chứng vay mượn mô phỏng, dù rất thô sơ. Ngoài những danh từ như Buddhabija (Phật chủng tử) và Abhinirhàna (Thành tựu, viên mãn), có đoạn Bà-la-môn Sumedha (Thiện tuệ) nói rằng "tôi không cần đến Niết bàn do diệt trừ các phiền não. Như đức Phật Dipankara (Nhiên Ðăng), tôi sẽ chứng vô thượng chánh đẳng giác, và nhờ Pháp thuyền làm phương tiện, tôi sẽ hướng dẫn chúng sanh vượt khỏi biển sanh tử và chứng Niết bàn". Câu này có vẻ rất Ðại thừa hay ít nhất cũng là bán Ðại thừa. Nhưng các nhà Tiểu thừa không những bác bỏ những phiếm luận siêu hình mà cũng bác bỏ luôn những danh sách quen thuộc các hạnh Ba-la-mật của Ðại thừa. Tập Jàtaka (Tiền thân) và tập Mahàbodhivàmsa (Trang 25 và 9) tuyên bố các pháp tác thành Phật (Buddhakàraka) chỉ có 10 Ba-la-mật; dàna (thí), sila (giới), nekkhamma (ly dục), pannà (tuệ), viriya (tinh tấn), khanti (nhẫn nhục), sacca (chân đế), adhitthana (thọ trì), mettà (từ) và upekkhà (xả).

Về những thần thông đặc biệt của một đức Phật, các nhà Tiểu thừa nói đến rất ít. Các tập Nikàya có chép các đức Phật (kể cả các vị Bích chi) tự mình chứng vô thượng giác, nhờ theo những pháp môn chưa từng được nghe. Một vị vô thượng giác diễn giảng chánh pháp, trở thành vị sáng lập một tôn giáo, một bậc thiên nhân sư. Ngài là bậc toàn tri (Sabbannu) và tri giác của Ngài về bất cứ vấn đề gì không cần Ngài phải chú tâm đến (àvajjanà). Ngài có đủ 10 lực và 4 Vesàrajja (Vô sở úy). Trong tập Kathàvatthu (III, 1, 2) có một cuộc thảo luận về vấn đề này. Vấn đề một Như lai có những năng lực tương tự như vị Thanh văn hay không, một điểm được học phái Andhaka đặt thành vấn đề, dựa theo đoạn văn của tập Anuruddha samyutta (V. tr. 304). Trong những thần thông của đức Phật đã được đề cập đến, thật không có gì rất đặc biệt, trừ một vài thần thông đã nói đến, và câu hỏi của học phái Andhaka đã làm cho các nhà Thượng tọa bộ khó chịu. Trong văn học của các nhà Tiểu thừa, các vị này cố gắng chứng minh đức Phật là một nhân vật hy hữu, siêu việt các loài ngườichư thiên, nhưng các vị này cũng nêu rõ không có sự khác biệt gì giữa một vị A-la-hán và một đức Phật, ngoại trừ đức tánh đức Phật là vị sáng lập và một bậc đạo sư của một tôn giáo (Xem chương II và bản dịch Dìgha Nikàya, II, 1-3, III, 6).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32565)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11091)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30224)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30308)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7882)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12029)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12153)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11492)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12567)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34440)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9719)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52110)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10620)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10381)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10584)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10338)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12970)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21641)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9516)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7003)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10295)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12516)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12647)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16111)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16393)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13731)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16402)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13693)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14227)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9116)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11185)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16125)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14258)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16102)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12611)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11934)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15546)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11400)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13926)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11907)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12510)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14853)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11878)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13022)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14379)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20530)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13095)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10852)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20561)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14227)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20149)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17462)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13848)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11904)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant