Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Bảy Mươi Bốn: Kim Ngưu Hòa Thượng Cười Ha Ha

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15675)
Tắc thứ Bảy Mươi Bốn: Kim Ngưu Hòa Thượng Cười Ha Ha

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 8

TẮC THỨ BẢY MƯƠI BỐN

KIM NGƯU HÒA THƯỢNG CƯỜI HA HA

 

THÙY: Vung kiếm Mạc Da, cắt đứt các dây dưa trước mũi nhọn. Gương sáng treo cao, trong câu dẫn xuất ấn Tì Lô. Ở chỗ điền điạ ẩn mật, mặc áo ăn cơm. Chỗ thần thông du hí, làm sao mà nương náu? Đã hiểu rõ chưa? Xin xem văn dưới đây.

CỬ: Mỗi lúc đến giờ trai, Kim Ngưu hòa thượng ôm nồi cơm ra trước tăng đường múa rồi cười ha hả nói, “Các Bồ Tát mau ra ăn cơm!”

Tuyết Đậu nói, “Tuy là thế, song chẳng phải là Kim Ngưuhảo tâm.”

Có ông tăng hỏi Trường Khánh, “Cổ nhân nói, ‘Các Bồ Tát mau ra ăn cơm,’ ý chỉ như thế nào?” Trường Khánh nói, “Cũng giống như thể nhân thụ trai mà tán thán vậy.”

BÌNH: Kim Ngưu là bậc tôn túc trong dòng của Mã Tổ. Mỗi lúc đến giờ trai là lại ôm nồi cơm ra trước tăng đường múa, rồi cười ha hả nói, “ Các Bồ Tát mau ra ăn cơm!” Thầy ta làm như thế suốt hai mươi năm, thử nói xem, ý của thầy ta ở chỗ nào? Nếu như chỉ để gọi tăng chúng ra ăn cơm, bình thường người ta có thể đánh mõ đánh trống để gọi cũng được rồi, hà cớ phải ôm nồi cơm ra làm lắm trò dấm dớ như thế? Phải chăng là thầy ta điên? Hay là thầy ta đề xướng kiến lập? Nếu như thầy ta đề xướng việc này, tại sao không leo lên bảo vương tòa mà lay giường dơ phất trần? Phải làm như vầy để làm gì?

Người bây giờ chẳng hể hiểu rằng ý của cổ nhân vốn ở ngoài ngôn ngữ. Tại sao không thử nhìn vào những đề mục của ý Tổ Sư từ Tây Trúc đến? Nghĩa là gì? Đã nói rõ rằng đó là giáo ngoại biệt truyền, đơn truyền tâm ấn. Phương tiện của cổ nhân là cũng nhắm để cho các ông có thể đảm đương được một cách trực tiếp mà thôi. Sau này thiên tư vọng động giải thích nói rằng, “Há lại có lắm chuyện như thế. Lạnh thì đến bên lửa, nóng thì hóng mát, đói thì ăn cơm, mệt thì nằm ngủ.” Nếu dùng thường tình ra mà giải thích, thì cả tông phái của Đạt Ma hẳn đã bị quét sạch khỏi mặt đất rồi. Há không biết rằng cổ nhân suốt ngày đêm không giây phút nào mà lại không nghĩ đến việc muốn hiểu rõ sự việc này?

Tuyết Đậu nói, “Tuy là thế, song chẳng phải là Kim Ngưuhảo tâm đâu.” Có rtấ nhiều người hiểu lầm câu nói này. Đúng là đề hồ trân quí của thế gian mà gặp phải những kẻ này thì đâm ra biến thành độc dược. Kim Ngưu đã vì thiên hạ mà bị lụy như thế, cớ làm sao Tuyết Đậu lại nói là thầy ta không có hảo tâm? Tại sao Tuyết Đậu lại nói như thế? Phải là các nạp tăng có tâm cơ sống động thì mới có thể hiểu được. Người thời buổi này không đến được cương vực của cổ nhân, chỉ mãi nói rằng, “Thấy tâm nào đâu? Có Phật nào đâu?” Nếu như các ông hiểu theo lối này, các ông phá hoại mất Kim Ngưu là bậc chuyên gia lão luyện. Cần phải quan sát cho kỹ thì mới có thể hiểu được. Nếu như hôm nay với ngày mai mà cũng chỉ có miệng lưỡi suông như thế, thì biết đến bao giờ mới dứt đây?

Sau đó lúc Trường Khánh thương đường, có ông tăng hỏi, “Lúc cổ nhân nói, ‘Các Bồ Tát mau ra ăn cơm’, chẳng hay ý chỉ là như thế nào?” Trường Khánh nói, “cũng giống như thể nhân thụ trai mà tán than vậy.” Các bậc tôn túc từ bi hết sức, lậu đậu không phải là ít. Đúng là “ nhân thụ trai mà tán than. Song các ông thử nói xem, tán than cái gì vậy? Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG

Trong bóng mây trắng cười ha ha,

Hai tay cầm đến trao người ta.

Nếu là dòng dõi sư tử vàng,

Ngoài ba ngàn dặm vẫn nhìn ra.

BÌNH: “Trong bóng mây trắng cười ha ha”. Trường Khánh nói, “Nhân thụ trai mà tán than.” Tuyết Đậu nói, “Hai tay cầm đến trao người ta.” Thử nói xem, phải chăng thầy ta chỉ đem cơm đến cho người ta ăn hay là còn có cái gì kỳ đặc hơn nữa? Nếu như các ông có thể hiểu được ngọn ngành của vấn đề này thì các ông đúng là dòng dõi của sư tử lông vàng. Nếu như họ là dòng dõi của sư tử lông vàng, thì Kim Ngưu hẳn đã không cần phải ôm nồi cơm ra trước tăng đường múa rồi cười ha hả, từ xa ngoài ba ngàn dặm họ hẳn đã thấy ra được chỗ sai lầm của thấy ta rồi.

Cổ nhân nói, “Quan sát trước khi cơ biến khởi lên thì các ơng sẽ chẳng phải phí chút tơ hào sức lực nào cả.” Cho nên các nạp tăng cần phải có chỗ dụng một cách hết sức đặc biệt mới có thể được xưng là bậc tông sư. Nếu như chỉ dựa vào ngôn ngữ, vẫn còn khó tránh khỏi lậu đậu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22304)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16026)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15036)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18965)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14453)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18637)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14434)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13594)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13557)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11826)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13266)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13670)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13942)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13255)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15027)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16167)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11087)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16461)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11912)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17602)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12882)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13720)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12867)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14861)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16399)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13136)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12102)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12777)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12921)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12794)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14181)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14137)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16488)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12382)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14391)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11334)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11038)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13197)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13899)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13168)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13007)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13513)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12741)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10238)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13971)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10240)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13710)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16274)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11972)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12984)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11662)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12685)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10801)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11002)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10949)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11902)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12771)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11071)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12622)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11331)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant