Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Bảy Mươi Bảy: Bánh Của Vân Môn

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15962)
Tắc thứ Bảy Mươi Bảy: Bánh Của Vân Môn

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 8

TẮC THỨ BẢY MƯƠI BẢY

BÁNH CỦA VÂN MÔN

 

THÙY: Chuyển lên có thể xỏ lỗ mũi của tất cả người trong thiên hạ, giống như chim ưng bắt bồ câu. Chuyển xuống thì lỗ mũi của mình nằm trong tay thiên hạ, giống như con rùa nấp trong mu. Nếu như hốt nhiên có người bước ra nói, “Bổn lai không có lên xuống, thì chuyển để làm gì?” Chỉ nói với người ấy rằng, “Tôi biết thế nào ông cũng vào hang ma mà sống.” Thử nói xem, làm sao để phân biệt đen trắng? Im lặng một hồi. Viên Ngộ mới nói,” Nếu có điều thì theo điều, không có điều thì theo lệ.”

CỬ: Có ông tăng hỏi Vân Môn, ”Thế nào là lời nói siêu Phật siêu Tổ?” Vân Môn nói, “Bánh.”

BÌNH: Ông tăng hỏi Vân Môn, “Thế nào là lời nói siêu Phật siêu Tổ?” Vân Môn nói, “Bánh”. Các ông có cảm thấy rờn rờn đến dựng tóc gáy không? Các nạp tăng hỏi Phật hỏi Tổ, hỏi Thiền hỏi đạo, hỏi hướng thượng hướng hạ, không còn có gì đế có thể hỏi nữa. Thế mà ông tăng này lại hỏi về lời nói siêu Phật siêu Tổ. Vân Môn là tay chuyên gia, lúc nước dâng thì thuyền vượt cao, lúc nhiều bùn thì tượng Phật lớn. Cho nên thầy ta đáp, “Bánh”. Có thể nói là đạokhông hành một cách không không, công lao không thí triển một cách phí phạm.

Vân Môn lại dạy chúng rằng, “Các ông đừng làm như mình hiểu, nghe thiên hạ nói về ý của Tổ Sư, bèn hỏi về lời nói siêu Phật siêu Tổ. Các ông gọi ‘Phật’ là gì ‘Tổ” là gì, mà đòi nói về lời siêu Phật siêu Tổ? Rồi các ông lại hỏi về việc xuất tam giới, các ông thử nhìn xem tam giớikiến văn giác tri gì ngăn cánh với các ông đâu? Có thanh sắc với Phật pháp nào đề cho các ông hiểu đâu? Có ‘bát’ nào để các ông biết dụng? Lấy gì để các ông dựa vào mà sinh kiến giải dị biệt? Các thánh nhân xưa cũng chẳng làm gì được cho các ông mặc dù họ trải thân ra để giúp chúng sinh. Dù nói rằng tất cả đều là thật, rằng trong mọi vật chúng ta đều có thể nhìn thấy thể tính, điều ấy cũng bất khả đắc. Khi tôi nói với các ông rằng , ‘Làm gì có việc gì đâu?’ thì kể cũng như mai một rồi.” Nếu hiểu được lời nói này, là hiểu được “bánh”.

Ngũ Tổ nói, “Cứt lừa cũng giống như cứt ngựa.” Đây chính là cái mà Vĩnh Gia gọi là “đi thẳng đến căn nguồn như Phật đã ấn, chứ còn vạch lá tìm nhánh thì tôi không thể làm được.” Đến chỗ này rồi mà muốn đạt được thân thiết, chớ có đem câu hỏi đến hỏi.

Nhìn xem ông tăng kia hỏi, “Thế nào là lời nói siêu Phật siêu Tổ?” Vân Môn nói, “Bánh”. Thầy ta có biết hổ thẹn chăng? Có còn lậu đậu chăng? Có một loại người võ đoán nói rằng, “ Vân Môn thấy thỏ thả ưng, cho nên bèn nói, “Bánh,” Nếu như các ông theo kiến giải ấy, xem “bánh” là lời nói siêu Phật siêu Tổ, thì làm gì còn có hoạt lộ nữa? Đừng hiểu nó là “ bánh” mà cũng đừng hiểu nó là siêu Phật siêu Tổ, đó mới là hoạt lộ. “Bánh”(của Vân Môn) cũng giống như “ba cân gai” (của Động Sơn) và “biết đánh trống” (của Hòa Sơn). Tuy rằng thầy ta chỉ nói “bánh”, song kỳ thực khó thấy hết sức.

Sau này thiên hẹ thường lâp luận rằng, “Thô ngôn và tế ngữ đều qui về đệ nhất nghĩa.” Nếu như các ông hiểu như thế, thì cứ việc đi làm tọa chủ, một đời thu thập được nhiều kiến giải. Ngày nay những người học Thiền nói, “Lúc siêu Phật siêu Tổ, thì cả Phật lẫn Tổ mình đều dẫm dưới chân, cho nên Vân Môn chỉ nói với ông tăng kia một chữ ‘bánh’ mà thôi”. Đã chỉ là “bánh” làm sao giải thích là siêu Phật siêu Tổ được? Thử tham cho cặn lẽ xem.

Các nơi tụng công án này rất nhiều, song chỉ men theo một bên để lập luận mà thôi. Chỉ có Tuyết Đậu tụng là hay nhất, thử nêu bài tụng của thầy ta lên xem sao.

TỤNG

Siêu đàm Thiền khách hỏi quá nhiều,

Những chỗ sơ hở có thấy chăng?

Lấy bánh nhồi vào cũng không thôi,

Đến giờ thiên hạ vẫn ngu ngơ.

BÌNH: “Siêu đàm Thiền khánh hỏi quá nhiều.” Các người học Thiền rất thích hỏi câu hỏi này. Há không nghe Vân Môn nói rằng, “Các ông gánh ngang cây gậy rồi nói rằng, ‘Tôi tham Thiền học đạo,’ rồi đi tìm đạo lý siêu Phật siêu Tổ. Tôi thử hỏi các ông, suốt cả ngày đi đứng nằm ngồi ỉa đái, khi ở quầy mua bán thịt dê trong chợ búa, có còn có đạo lý siêu Phật siêu Tổ chăng?” Kẻ nào nói được, thử bước ra xem. Còn nếu không có ai nói được, thì cứ mặc kệ ta muốn làm gì thì làm.” Rồi bước xuống khỏi tòa.

Có người không biết phân biệt tốt xấu, vẽ vòng tròn, thêm bùn lên đất, mang thêm xiềng xích. ”Những chỗ sơ hở có thấy chăng?” Ông tăng kia đặt câu hỏi có chỗ sở hở hết sức lốn! Vân Môn thấy chỗ sơ hở ấy trong câu hỏi của ông ta cho nên mới lấy bánh ra mà nhồi chặt lại. Ông tăng kia vẫn chưa chĩu thôi, mà vẫn tiếp tục hỏi, cho nên Tuyết Đậu mới nói, “Lấy bánh nhồi chặt cũng không thôi.”

“Đến giờ thiên hạ vẫn ngu ngơ.” Những người học Thiền ngày nay cứ dựa vào “bánh” mà hiểu, nếu không thì lại lập luận về “siêu Phật siêu Tổ.” Đã không ở trong hai cái này, rốt cuộc ở đâu? Ba chục năm sau này, đợi lúc tôi thay xương cốt, rồi sẽ nói cho các ông.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11640)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11965)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11119)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11353)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12565)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10770)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17989)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11730)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9953)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10172)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12353)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15347)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11246)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14334)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12108)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15373)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12005)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12415)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11187)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12087)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10620)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12557)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13176)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14845)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12694)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16581)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19673)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13114)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12675)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12271)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11864)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13530)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11958)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11847)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11642)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12770)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14523)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12616)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13629)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12899)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9880)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18020)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11169)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9084)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12183)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13054)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10312)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12200)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15317)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12220)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11488)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14274)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19707)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14156)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24612)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10694)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant