Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tắc thứ Bảy Mươi Chín: Tất Cả Các Âm Thanh Của Đầu Tử

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15147)
Tắc thứ Bảy Mươi Chín: Tất Cả Các Âm Thanh Của Đầu Tử

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 8

TẮC THỨ BẢY MƯƠI CHÍN

TẤT CẢ CÁC ÂM THANH CỦA ĐẦU TỬ

 

THÙY: Đại dụng hiện tiền, không giữ qui tắc. Bắt sống cầm giữ, không hao khí lực. Song thử nói xem, ai đã từng như thế được? Thử nêu lên xem.

CỬ: Có ông tăng hỏi Đầu Tử, “Tất cả các âm thanh đều là âm thanh của Phật, phải không?” Đầu Tử nói, “Phải.” Ông tăng nói, “Có phải hòa thượng vừa đánh rắm đó chăng?” Đầu Tử đánh ông tăng. Ông tăng lại hỏi, “Thô ngôn và tế ngữ đều qui về đệ nhất nghĩa, phải không?” Đầu Tử nói, “Phải” Ông tăng nói, “Có thể gọi hòa thượng là một con lừa được không?” Đầu Tử bèn đánh ông tăng.

BÌNH: Đầu Tử thành thực chất phác, có biện tài xuất chúng. Mỗi khi có câu hỏi đặt ra, Đầu Tử vừa mở niệng là chúng ta đã thấy được lòng dạ của thầy ta. Đầu Tử không cần phải phí sức gì cả mà vẫn làm líu lưỡi người hỏi được. Có thể nói la thầy ta hoặc định kế sách trong trại của mình mà đạt được chiến thắng ngoài ngàn dặm. Ông tăng này lấy kiến giải Phật pháo dựa trên thanh sắc mà dàn trên trận mình, bất cứ gặp ai cũng hỏi ngay. Song Đầu Tử là bậc chuyên gia phân biện được ngay những gì đến với mình.

Ông tăng này biết Đầu Tử thành thật, cho nên ngay từ đầu đã sắp đặt bẫy rập để cho Đầu Tử rơi vào, cho nên ông ta mới có những lời kết kuận như trên. Song Đầu Tử lại dùng cái bẫy cọp để mà câu những kết luận của ông tăng ra. Ông tăng kia tiếp câu trả lời của Đầu Tử bằng lời nói, “Có phải hòa thượng vừa đánh rắm đó chăng?” Quả nhiên Đầu Tử vừa câu ông tăng kia đã mắc phải. Bất cứ là ai khác hẳn cũng chẳng làm gì được ông tăng này, song Đầu Tử có mắt cho nên bèn tiếp tục đánh. Muốn có cái khả năng “chó cắn heo” như thế thì phải là một bậc chuyên gia mới được. Bất cứ ông tăng kia xoay phải hay xoay trái, Đầu Tử cũng bám sát một cách trơn tru. Ông tăng kia đã đặt ra bẫy rập để vuốt râu hùm, song đâu có dè rằng Đầu Tử đã vượt hẳn trên bẫy rập của ông ta, cho nên Đầu Tử bèn đánh. Đáng tiếc thay ông tăng này chỉ có đầu mà không có đuôi. Phải chi ngay lúc mà Đầu Tử dơ gậy lên, ông ta lật đổ ngay giường Thiền của Đầu Tử có phải hơn không. Dù cho Đầu Tử có vận dụng toàn cơ ra đi nữa, hẳn cũng đã phải thối lui lại ba ngàn dặm.

Ông tăng lại hỏi, ”Thô ngôn và tế ngữ đều qui về đệ nhất nghĩa, phải không?’ Đầu Tử lại cũng nói, “Phải”. Hoàn toàn giống như câu trả lời trước. Ông tăng nói, “Có thể gọi hòa thượng là một con lừa được không?” Đầu Tử lại đánh ông ta. Ông tăng này tuy chỉ dựa theo khuôn sáo song cũng có phần nào đặc sắc. Nếu như mà lão hán ngồi trên giường khắc kia mà không có mắt trên đỉnh đầu thì hẳn đã khó mà bẻ gẫy được ông tăng. Đầu Tử có chỗ chuyển thân. Lúc ông tăng này nêu ra lập luận, ông ta đã co ý muốn cướp tiệm của Đầu Tử, song rốt cuộc lại cũng vẫn chẳng làm gì được lão hán Đầu Tử này.

Há không nghe Nham Đầu nói, “Nếu luận việc chiến thì ai cũng đứng nơi then chốt cả.” Đầu Tử buông bỏ thì rất chậm song thu vào lại rất nhanh. Lúc ấy nếu như ông tăng này biết chuyển thân thổ lộ, há đã lại không hành động được giống như một kẻ có miệng giống bát máu sao? Nạp tăng đã hành động thì không bao giờ chịu thôi (nếu chưa hành động cho đến cùng). Ông tăng này đã không biết phản kích lại còn bị Đầu Tử xỏ mũi cho. Tụng rằng:

TỤNG

Đầu Tử Đầu Tử,

Cơ luân vô ngại.

Buông một được hai,

Đồng bỉ đồng thử.

Thương thay vô hạn người chơi sóng,

Cuối cùng rơi vào sóng mà chết.

Hốt nhiên sống,

Trăm sông ào ào chảy ngược lại.

BÌNH: “Đầu Tử Đầu Tử, cơ luân vô ngại.” Đầu Tử thường nói, “Các ông thường nói Đầu Tử thành thật, song nếu hốt nhiên các ông xuống khỏi núi ba bước, có người hỏi, ‘Đâu là chỗ thành that của Đầu Tử?” Các ông phải trả lời như thế nào?” Cơ luân của Đầu Tử chuyển một cách trơn trư không chút ngở ngại.

Cho nên Tuyết Đậu nói, “Buông một được hai.” Há không nghe có ông tăng hỏi, “Phật là gì?” Đầu Tử nói, “Phật”. Ông tăng lại hỏi, “Đạo là gì?” Đầu Tử nói, “Đạo”. Ông tăng lại hỏi, “Thiền là gì?” Đầu Tử nói, “Thiền,” Ông tăng lại hỏi, “Lúc trăng chưa tròn thì như thế nào?” Đầu Tử nói, “Nuốt ba hay bốn cái.” Ông tăng lại hỏi, “Thế sau khi trăng tròn thì như thế nào?” Đầu Tử nói, “Nhổ ra bẩy cái tám cái.” Đầu Tử thường dùng tâm cơ này để tiếp thiên hạ.

Lúc trả lời ông tăng (trong công án trên) Đầu Tử chỉ dùng mỗi một chữ “ Phải”. Ông tăng kia bị đánh hai lần. Cho nên Tuyết Đậu nói, “Đồng bỉ đồng thử.” Bốn câu này một lúc tụng Đầu Tử. Cuối cùng Tuyết Đậu tụng ông tăng rằng, “Thương thay, vô hạn người chơi sóng.” Ông tăng kia dám cướp cờ giựt trống nói rằng, “Có phải hòa thượng vừa đánh rắm không?” Và, “Có thể gọi hòa thượng vừa đánh rắm không?” Và, “Có thể gọi hòa thượng là một con lừa được không?” Đây chính là chỗ ông ta chơi sóng. Ông tăng này đã dở hết nghể ra song vẫn y như cũ chết trong câu của Đầu Tử, cho nên Đầu Tử mới đánh ông ta. Cho nên ông tăng này “Cuối cùng rơi vào sóng mà chết.”

Tuyết Đậu buông ông tăng này và nói rằng nếu như ông ta hốt nhiên sống lại lật ngược giường Thiền thì ngay Đầu Tử cũng phải lui lại ba trăm dặm, lúc đó “trăm sông ào ào chảy ngược lại” ngay. Lúc ấy không phải chỉ có giường Thiền chấn động, ngay cả núi sông cũng rung chuyển, trời đất đột nhiên tối òm. Nếu như các ông người nào cũng được như vậy sư núi tôi xin đánh trống tháo lui ngay. Các ông định thân lập mệnh ở đâu đây?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12491)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14092)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10839)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10510)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11167)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11975)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13102)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13609)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33628)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11316)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12888)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13027)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11598)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17862)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11399)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11812)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11464)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18950)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12518)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11305)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13122)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15731)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11791)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11676)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12733)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12614)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13927)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12955)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12906)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13266)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12737)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12662)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11708)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11699)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12308)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12371)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19807)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11938)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11974)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16867)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12656)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15050)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16089)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12858)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12206)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11901)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11914)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13135)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16490)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13218)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12466)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11793)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19821)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11135)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11238)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10392)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11071)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10950)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10018)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11725)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant