Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Tám Mươi: Hài Từ Thức Của Triệu Châu

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15615)
Tắc thứ Tám Mươi: Hài Từ Thức Của Triệu Châu

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 8

TẮC THỨ TÁM MƯƠI

HÀI TỬ THỨC CỦA TRIỆU CHÂU

 

CỬ: Có ông tăng hỏi Triệu Châu, “Trẻ sơ sinh có thức thứ sáu hay không?” Triệu Châu nói, “Giống như đánh cầu trên nước chảy xiết.” Ông tăng lại hỏi Đầu Tử, “Thế nào là đánh cầu trên nước chảy xiết?” Đầu Tử nói, “Niệm niệm không ngừng chảy.”

BÌNH: Thức thứ sáu này giáo tông lập làm căn bản. Sơn hà đại địa, trăng sao tinh tú nhân nơi nó mà sinh. Đến với tư cách tiên phong đi với tư cách điện hậu. Cổ nhân nói, “Tam giới duy tâm vạn pháp duy thức.” Nếu như người ta chứng được Phật địa, thì tâm thức chuyển thành bốn trí. Các nhà giáo tông gọi đây là thay đổi danh chứ không phải thay đổi thể.

Căn trần thức là ba. Chúng ta vốn không phân biệt được trần cảnh trước mặt mình. Thắng nghĩa căn có thể phát sinh thức, thức lại có thể hiển sắc, có thể phân biệt. Đó chính là thức thứ sáu. Thức thứ bẩy là mạt-na. Mạt-na thức có thể chấp trì tất cả mọi hình ảnh và sự vật của thế gian, khiến người ta phiền não và không được tự do tự tại. Thức thứ tám cũng được gọi là A Lại Da thức hay Hàm tang Thức, vì nó tang chứa tất cả các chủng từ thiện cũng như ác.

Ông tăng kia biết giáo ý cho nên đến hỏi Triệu Châu, “Trẻ sơ sinh có thức thứ sáu hay không?” Trẻ sơ sinh tuy rằng có đủ sáu thức, mắt thấy được tai nghe được, song lúc ấy vẫn chưa biết phân biệt sáu trần. Lúc ấy chưa biết gì về xấu tốt dài ngắn thị phi đắc thất gì cả. Người học đạo cần phải giống như đứa trẻ sơ sinh, đừng để cho vinh nhục công danh hay thuận tình nghịch cảnh gì đã động được đến mình. Tuy mắt thấy sắc song cũng giống như người mù, tuy tai nghe âm thanh song cũng giống như người điếc. Như ngu si như ngớ ngẩn, tám người ấy bất động như thể Tu Di Sơn. Đây chính là chỗ mà các nạp tăng thực sự đạt được sức mạnh.

Cổ nhân nói, “Áo nạp che đầu, vạn sự dứt. Lúc ấy sư núi tôi chẳng còn hiểu gì nữa cả.” Nếu như các ông có thể như thế được thì các ông mới có phần nào khế hợp với đạo. Tuy rằng như thế, song vẫn không thể nào lừa dối bậc chuyên gia một chút nào được cả. Núi vẫn là núi như cũ, sông vẫn là sông như cũ. Không tạo tác không duyên lự. Giống như thể nhật nguyệt vận chuyển trên không gian, chưa từng bao giờ tạm ngưng nghỉ hay nói, ”Ta có rất nhiều danh tướng.” Giống như trời che chở khắp cả, giống như đất chống đỡ tất cả. Vì vô tâm cho nên mới trưởng dưỡng vạn vật mà cũng không nói, “Ta có rất nhiều công năng.” Bởi vì thiên địa vô tâm cho nên mới trường cữu, nếu như hữu tâm thì có hạn độ. Người đắc đạo cũng giống như thế, thi triển công dụng trong chỗ không có công dụng. Dùng tự tâm nhiếp thu tất cả vi tinh thuận cảnh.

Đến chỗ này rồi cổ nhân tự trách mình nói rằng, “Lúc triệt để hiểu rồi thì không có gì để hiểu cả, hiểu được cái huyền nơi cơ huyền diệu vẫn có chỗ đáng trách.” Lại cũng nói, “Sự sự thông hề vạn vật minh, người hiểu nghe thấy thầm kinh ngạc.” Lại nói, “Nhập thánh siêu phàm bất tác thanh, ngọa long vẫn sợ hồ nước xanh. Đời người nếu được dài như thế, trời đất sao lưu được một tên?” Song dù là như thế, cũng phải nhảy ra khỏi khuôn sáo thì mới được.

Há không nghe trong giáo ( Kinh Hoa Nghiêm) nói rằng, “ Bồ Tát ở đệ bát Bất Động Địa, dụng vô công dụng trí chuyển Pháp Luân lớn trong một hạt bụi nhỏ. Trong tất cả mọi lúc hành trụ tọa ngọa chẳng hề câu nệ đắc thất, tự tại trôi trong biển Bát Nhã.”Các nạp tăng đến chỗ này cũng không được chấp trướcc, song tùy thời tự tại. Gặp trà thì uống trà, gặp cơm thì ăn cơm. Việc hướng thượng này không thể ứng dụng chữ định hay bất định được.

Thạch Thất Thiện Đạo Hòa Thượng nói rằng, “Há các ông không thấy lúc hài nhi mới xuất thai đâu có nói rằng, ‘Tôi biết đọc kinh.’ Lúc ấy cũng chẳng hề hiểu ý nghĩa của việc có Phật tính hay không có Phật tính. Lúclớn lên học được nhiều thứ kiến giải, cho nên mới đưa mặt ra mà nói rằng, “tôi làm được,” “tôi hiểu”, không thể biết rằng đó chỉ là khách trần phiền não. Trong mười sáu pháp quán hành, pháp ‘anh nhi hành’ là hay nhất. Lúc đứa trẻ bập bẹ nó giống như người học đạo, lìa hẳn cái tâm phân biệt thủ xã. Cho nên tôi mới tán than đứa hài nhi. Tuy rằng đứa hài nhi có thể lấy ra làm ví dụ, song nếu nói rằng đứa hài nhi là Đạo, thì e rằng người đời nay hiểu lầm mất rồi.”

Nam Tuyền nói, “Tôi mười tám tuổi mới biết sống.” Triệu Châu nói, “Tôi mười tám tuổi mới biết phá cửa tan nhà.” Lại nói, “Tôi ở phương Nam hai mươi năm, ngoài hai buổi cơm cháo ra, chỉ là tạp dụng tâm mà thôi.” Tào Sơn hỏi ông tăng, “Bồ Tát trong thiền định nghe tiếng hương tượng qua sông rõ ràng,’ chẳng hay câu ấy từ trong kinh nào vậy?” Ông tăng nói, “Kinh Niết Bàn.” Động Sơn hỏi, “Nghe trước khi nhập định hay sau khi nhập định?” Ông tăng nói, “Hòa thượng chẩy rồi.” Động Sơn nói, “Tiếp thu bên bãi sông.”

Qui Sơn hỏi Ngưỡng Sơn, “ Tịch cảm thấy như thế nào?” Ngưỡng Sơn nói, “ Hòa thượng hỏi về chỗ kiến giải hay là chỗ hành giải của hắn? Nếu như hòa thượng hỏi về hành giải thì đệ tử không biết. Còn nếu như hòa thượng hỏi về kiến giải thì đó giống như đổ một bình nước vào một bình nước.” Nếu các ông có thể như vậy các ông mới có thể làm bậc thầy của một phương. Khi Triệu Châu nói, “Đánh cầu trên dòng nước chảy xiết,” thầy ta đã xoay chuyển một cách trơn tru. Nếu như các ông đánh cầu trên dòng nước chảy xiết, thì chỉ trong chớp mắt là nó đã lăn mất. Giống như Kinh Lăng Nghiêm nói, “ Nhìn dòng nước chảy xiết giống như thể êm đềm.” Cổ nhân nói, “Giống như trong dòng nước chảy xiết, nước chảy không ngừng, song các giọt nước chẳng hề biết nhau. Chư pháp cũng như vậy mà thôi.’ Lời đáp của Triệu Châu cũng ngụ ý giống như vậy.

Có ông tăng lại hỏi Đầu Tử, “Đánh cầu trên dòng nước chảy xiết có nghĩa là gì?” Đầu Tử đáp, “Niệm niệm không ngừng chảy.” Tự nhiên hết sức khế hợp với câu hỏi của ông tăng. Cổ nhân hành sử hết sức miên mật cho nên cách trả lời giống y hệt nhau. Lại chẳng bao giờ cần so đo, ngay khi các ông vừa hỏi là họ đã biết ý của các ông rồi. Mặc dù thức thứ sáu ở nơi đứa hài nhi hãy vẫn chưa còn có công dụng, song vẫn niệm niệm không ngừng trôi chảy giống như một dòng nước miên mật. Đậu Tử trả lời như thế, có thể nói là thầy ta hiểu thâm sâu ý của câu hỏi. Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG

Lục thức vô công hỏi một câu,

Chuyên gia từng cùng biện đầu mối.

Đánh cầu trên dòng nước chảy xiết,

Rơi xuống không dừng, ai biết xem?

BÌNH: “Lục thức vô công hỏi một câu.” Cổ nhân học đạo dưỡng tâm đến mức độ này gọi là công dụng trong chỗ vô công dụng. Giống như đứa hài nhi, tuy có nhãn nhĩ tĩ thiệt thân ý, song không phân biệt lục trần. Họ vốn vô công dụng. Một khi đạt đến mức độ này thì các ông mới có thể hành long phục hổ được. Người bây giờ chỉ một lúc gạt qua vạn cảnh trước mắt, cần gì phải đạt đến đệ bát địa( Bất Động Địa) trở lên mới như thế được? Tuy là chỗ vô công dụng, song núi lại là núi sông lại là sông như cũ.

Trong bài tụng trước (Tắc 41) Tuyết Đậu nói, “Trong sống có mắt cũng như chết, thuốc kỵ sao đem thử chuyên gia?” Bởi vì Triệu ChâuĐầu Tử đều là chuyên gia cho nên thầy ta nói, “Chuyên gia từng cùng biện đầu mối, đánh cầu trên dòng nước chảy xiết.” Đầu Tử nói, “Niệm niệm không ngừng chảy.” Các ông có hiểu ý nghĩa của lời nói này chăng? Cuối cùng Tuyết Đậu dạy thiên hạ tự ghé mắt mà nhìn. Cho nên thầy ta nói, “ Rơi xuống không dừng, ai biết xem?” Đây là câu sống của Tuyết Đậu, song thử nói xem ý nghĩa của nó là thế nào?
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22297)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16026)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15034)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18961)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14452)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18632)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14431)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13588)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13556)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11822)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13262)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13666)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13940)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13252)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15026)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16165)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11085)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16456)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11908)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17600)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12880)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13717)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12865)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14861)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16392)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13132)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12093)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12775)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12919)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12792)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14179)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14123)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16481)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12381)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14390)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11332)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11037)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13195)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13896)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13164)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13006)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13509)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12739)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10234)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13970)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10236)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13705)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16270)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11968)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12980)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11661)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12682)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10799)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11001)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10945)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11899)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12767)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11068)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12621)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11327)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant