Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Tám Mươi Bốn: Bất Nhị Pháp Môn Của Duy Ma cật

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15804)
Tắc thứ Tám Mươi Bốn: Bất Nhị Pháp Môn Của Duy Ma cật

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 9

TẮC THỨ TÁM MƯƠI BỐN

BẤT NHỊ PHÁP MÔN CỦA DUY MA CẬT

 

THÙY: Tuy rằng nói “có” song chẳng có gì để mà xác nhận là “có”. Tuy rằng nói “không” song cũng chẳng có gì để phủ nhận là “không” được cả. Gạt bỏ thị phi, quên cả đắc thất, lúc ấy mới có thể thánh thoát tự tại. Song thử nói xem, trước mắt và sau lưng các ông là cái gì vậy? Nếu như có nạp tăng nào bước ra nói, “trước mắt là Phật điện tam quan,sau lưng là phòng ngủ phương trượng.” Thử nói xem, người ấy có mắt hay không? Nếu như các ông phân biện được người ấy, tôi công nhận rằng các ông đã thân cận được với cổ nhân rồi đấy.

CỬ: Duy Nam Cật hỏi Văn Thù Sư Lợi, “Thế nào là Bồ Tát nhập nhị pháp môn?” Văn Thù nói, “Theo ý tôi thì ở nơi tất cả các pháp vô ngôn vô thuyết, vô thị vô thức, ly ngôn vấn đáp, đó chính là nhập bất nhị pháp môn.” Rồi Văn thù Sư Lợi lại hỏi Duy Ma Cật, “Chúng tôi ai nấy đều nói cả rồi, bây giờ nhân giả thử nói cho chúng tôi nghe xem thế nào là Bồ Tát nhập bất nhị pháp môn?”

Tuyết Đậu nói, “Duy Ma Cật nói gì vậy?” Lại nói, “Khám phá ra rồi.”

BÌNH: Duy Ma Cật khiến các đại Bồ Tát mọi người nói về bất nhị pháp môn. Lúc ấy ba mươi hai vị Bồ Tát đều lấy nhị kiến hữu vivô vi, chân đếnhị đế, họp lại thành một kiến và xem đó là bất nhị pháp môn. Cuối cùng Duy Ma Cật hỏi Văn Thù. Văn Thù nói,” Theo ý tôi thì ở nơi tất cả các pháp vô ngôn vô thuyết, vô thị vô thức, ly ngôn vấn đáp, đó chính là bất nhị pháp môn. ”Bởi vì ba mươi hai vị Bồ tát kia dùng ngôn ngữ để phủ nhận ngôn ngữ, Văn Thù mới lấy vô ngôn để phủ nhận ngôn ngữ. Một lúc quét sạch tất cả, không chấp nhận bất cứ gì, vì giải thích đó là bất nhị pháp môn. Đâu có dè rằng đó cũng giống như con rùa thiêng kéo lê cái đuôi để quét bụi, tuy quét sạch bụi song vẫn để lại dấu tích. Giống như cái chổi quét sạch bụi, song lại để lại vết chổi.

Cuối cùng, vẫn còn dấu tích như trước, Văn Thù hỏi Duy Ma Cật, “ chúng tôi ai nấy đều nói cả rồi, bây giờ nhân giả thử nói cho chúng tôi nghe xem thế nào là Bố Tát nhập bất nhị pháp môn?” Duy Ma Cật im lặng. Nếu như là người sống chẳng ai lại đi vào nước chết mà chìm đắm. Nếu như các ông có những kiến giải như thế, thì cũng giống như con chó điên đuổi thao khối đất mà thôi. Tuyết Đậu không nói rằng Duy Ma Cật im lặng, cũng chẳng nói rằng Duy Ma Cật ngồi yến nơi ghế. Chỉ nói ngay rằng, “Duy Ma Cật nói gì vậy?” Lúc Tuyết Đậu nói như thế, thầy ta có thấy Duy Ma Cật chăng? Cho dù trong mộng cũng chẳng thấy được.

Duy Ma Cật là bậc cổ Phật trong quá khứ, có quyến thuộc. Giúp đức Phật tuyên hóa. Duy Ma Cậtbiện tài bất khả tư nghi, có cảnh giới bất khả tư nghị, có thần thông diệu dụng bất khả tư nghị. Chỉ trong phòng của mình mà Duy Ma Cật chứa được ba vạn hai ngàn sư tử bảo tòa, cùng với tám vạn đại chúng mà vẫn chẳng rộng chẳng hẹp. Thử nói xem đây là đạo lý gì vậy? Có thể gọi là thần thông diệu dụng được chăng? Đừng hiểu lầm, Nếu đó là bất nhị pháp môn, thì phải đồng đắc đồng chứng mới có thể cùng biết được.

Chỉ có Văn Thù là có thể trả lời được. Tuy rằng thế, song có tránh được sư phê bình của Tuyết Đậu không? Tuyết Đậu nói như vậy, cũng cần phải gặp mặt hai người kia. Tuyết Đậu nói như vậy, cũng cần phải gặp mặt hai người kia. Tuyết Đậu nói, “Duy Ma Cật nói gì vậy?” và “Khám phá rồi.” Các ông thử nói xem chỗ nào là chỗ khám phá ra? Việc này chẳng câu nệ nơi đắc thất, chẳng rơi vào chỗ thị phi. Cũng giống như trên vách đá vạn trượng, nếu như các ông dám buông bỏ tính mạng mà nhảy, thì các ông mới co 1thể gặp Duy Ma Cật được. Nếu như các ông không buông bỏ được thì các ông không buông bỏ được thì các ông cũng giống như con dê húc vào hàng dậu. Tuyết Đậu đương nhiên là người dám xả bỏ tính mạng, cho nên thầy ta mới tụng rằng:

TỤNG

Hét lão Duy Ma này,

Từ bi buồn vô ích.

Ốm nơi thành Vệ Xá,

Toàn thân khô héo đi.

Thầy của bẩy Phật tới,

Một phòng quét sạch mãi,

Hỏi bất nhị pháp môn.

Lập tức dựa rồi ngã.

Không dựa ngã,

Kim mao sư tử không chỗ tìm.

BÌNH: Tuyết Đậu nói, “Hét lão Duy Ma này.” Tại sao lại mở đầu bằng cách hét Duy Ma như thế? Tuyết Đậu từ đầu đã dùng ngay Kim Cương Vương Bảo Kiếm cắt đứt. Duy Ma cần phải bị đánh ba ngàn gậy buổi sáng, tám trăm gậy buổi chiều. Chử Phạn Duy Ma Cật (Vimalakìrti) dịch ra tiếng Trung Hoa là “Vô Cấu Xưng,” hay là “Tịnh Danh.” Cũng còn được gọi là Kim Túc Như Lai của thời quá khứ. Há không nghe có ông tăng hỏi Vân Cư Giản Hòa Thượng, “Đã là Kim Túc Như Lai,tại sao lại còn phải nghe Pháp trong hội của Thích Ca Như Lai?” Giản Hòa Thượng nói,”Bởi vì Duy Ma không tranh nhân ngã. Bậc đạo giải thoát không câu nệ việc ‘thành Phật” với lại không thành Phật.” Nếu như bảo rằng người ấy tu hành để cố gắng thành Phật thì lại càng chẳng có gì nhằm nhò cả.” Kinh Viên Giác nói, “ Lấy tâm luân hồi sinh kiến chấp luân hồi để mà vào biển lớn tịch diệt của Như Lai thì mãi mãi chẳng bao giờ được.”

Vĩnh Gia nói, “ thị hay phi chẳng ai biết, nghịch hành thuận hành trời chẳng dò. Nếu thuận hành thì đi vào quả vị Phật, nếu nghịch hành thì nhập chúng sinh cảnh.” Thọ Thiền Sư nói, “Dù cho các ông có tôi luyện rồi đạt đến mức độ này đi nữa, các ông vẫn chưa có thể thuận theo ý mình được. Chỉ khi nào các ông chứng được vô lậu thánh thân, các ông mới bắt đầu tha hồ thuận hành hay nghịch hành được.” Cho nên Tuyết Đậu nói, “Từ bi không ảo não.” Trong Kinh Duy Ma Cật nói, “Bởi vì chúng sinh có bệnh cho nên tôi cũng có bệnh.” Tuyết Đậu nói, “Ốm nơi thành vệ Xá,” bởi vì Duy Ma Cật thị tật ở thành Vệ Xá (Vaisali).

“Toàn thân khô héo đi.” Bởi vì Duy Ma Cật dùng thân bệnh để mà rộng thuyết Pháp rằng, “Thân này vô thường, vơ cường vô lực, vô kiến và chóng bại hoại. Không thể nào nương cậy vào nó được. Nó gây khổ gây não và là nơi các thứ bệnh hoạn tụ tập. Nó chỉ là do uẩn, xứ và giới tập hợp lại thành mà thôi.”

“Thầy của bẩy Phật tới.” Văn Thùtổ sư của bẩy Phật, tuân theo lời dạy của đức Thế Tôn đến đó mà hỏi thăm bệnh của Duy Ma Cật,” Một phòng quét sạch mãi?” Duy Ma Cật cho dọn dẹp tất cả mọi thứ trong phòng đi chỉ để lại mỗi một cái giường mà thôi. Lúc Văn Thù đến lại hỏi về bất nhị pháp môn, cho nên Tuyết Đậu nói, “Hỏi bất nhị pháp môn.” “Lập tức dựa rồi ngã.” Miệng Duy Ma Cật cong như cái gánh. Những kẻ học Thiền ngày nay nói rằng, "Không nói gì tức là dựa và ngã.” Song đừng có nhận lầm điểm giữa cán cân.

Tuyết Đậu dồng các ông lên đỉnh cao vạn trượng rồi nói, “Không dựa ngã.” Đúng là một tay ấn xuống một tay kéo lên. Thầy ta có thứ khả năng này mà lại sử dụng được một cách rất là vi diệu. Đây là để tụng lời niêm “Duy Ma Cật nói gì vậy?”

“Kim Mao Sư tử không chỗ tìm.” Không phải chỉ lúc ấy mà ngay bây giờ cũng thế. Các ông còn thấy lão Duy Ma chăng? Dù cho tất cả sơn hà đại địa thảo mộc rừng rậm biến thánh kim mao sư tử, các ông cũng chẳng rờ rẫm ra.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11631)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11947)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11101)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11340)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12061)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12553)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10762)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17973)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11723)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9943)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10167)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12348)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15337)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11238)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12094)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15359)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11997)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12400)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11171)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12085)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10602)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12553)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13158)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14835)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12675)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16568)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19659)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13105)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12662)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12252)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11843)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10897)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13518)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11944)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11839)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11630)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12762)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14513)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12612)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15663)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13621)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12892)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9859)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18014)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11161)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9076)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13042)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10298)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12184)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15304)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16606)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12212)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11464)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14265)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19697)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14148)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24604)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10679)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant