Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tắc thứ Tám Mươi Lăm: Con Cọp Của Đồng Phong Am Chủ

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15249)
Tắc thứ Tám Mươi Lăm: Con Cọp Của Đồng Phong Am Chủ

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 9

TẮC THỨ TÁM MƯƠI LĂM

CON CỌP CỦA ĐỒNG PHONG AM CHỦ

 

THÙY: Cầm chắc thế giới không hở chút nào, khiến cho tất cả mọi người trên đời đánh mất sự sắc bén và líu cả lưỡi. Đó chính là chính lệnh của các nạp tăng. Phòng ánh sánh từ giữa trán ra chiếu sáng khắp bốn phương thiên hạ, đó chính là con mắt kim cương của nạp tăng. Điểm sắt thành vàng điểm càng thành sắt, bỗng nắm bỗng buông, đó chính là cây gậy của nạp tăng. Làm líu lưỡi tất cả người trong thiên hạ cho đền nỗi họ không có chỗ mà thở ra, phải lùi lại ba ngàn dặm. Đó chính là khí chất của nạp tăng. Thử nói xem, nếu không như thế này thì rốt cuộc là người như thế nào? Thử nêu lên xem.

CỬ: Có ông tăng đến nơi của Đồng Phong Am Chủ rồi hỏi, “Ở chỗ này nếu hốt nhiên gặp cọp thì phải làm như thế nào?” Đồng Phong bèn gầm lên như cọp. Ông tăng bèn làm ra vẻ sợ hãi. Đồng Phong bật cười ha hả. Ông tăng nói, “Cái lão tặc này.” Đồng Phong nói, “Thế ông làm gì được lão tăng nào?”

Tuyết Đậu nói, “Kể ra thì cũng được, song hai tên ác tặc này chỉ biết bịt tai để ăn trộm chuông mà thôi.”

BÌNH: Từ tông phái Đại Hùng (của Bách Trượng Hoài Sản) sản xuất ra được bốn vị am chủ: Đại Mai, Bạch Vân, Hồ Khe và Đồng Phong.

Nhìn xem hai người này mắt biết nhìn tay biết hành động làm sao! Thử nói xem rắc rối ở chỗ nào? Cổ nhân một cơ một cảnh một ngôn một cú tuy rằng chỉ lâm thời xuất ra song rất là sống động bởi vì mắt họ luôn luôn bao trùm và chính xác. Tuyết Đậu niêm để giúp cho thiên hạ biết tà chính, biện đắc nhất. Tuy là thế, song ở nơi con người đã đạt đạo dù là sống ở chỗ đắc thất mà chẳng hề có đắc thất. Nếu các ông lấy đắc thất ra để mà nhìn cổ nhân thì chẳng có gì là nhằm nhò cả. Người thời nay, ai cũng nên hiểu cho đến tận cùng chỗ đắc thất, rồi sau đó hãy lấy đắc thất ta mà biện nhận. Nếu cứ xử dụng tâm ở chỗ so đo ngôn cú thì đến bao giờ mới được.

Há không nghe Vân Môn Đại Sư nói. “Những người hành cước đừng chỉ du hành phắp nơi một cách lãng phí, chỉ mong so đo ngôn cú. Ngay khi lão hòa thượng nào đó vừa mở miệng là các ông đã hỏi Thiền hỏi đạo, hỏi việc hướng thượng hướng hạ, hỏi cái gì và như thê nào, viết những sớ sao dầy cộm màn nhét vào trong bụng. Đến đâu cũng tụm ba bên lò lửa rồi là nói huyên thuyên. Nào là đây là những lời biện tài, đây là những lời đề cập đến thân, đây là những lời về sự vật, đây là những lời từ thể tính. Lo tìm hiểu các bậc cha mẹ trong tông môn của mình. Nuốt xong miếng cơm là chỉ lo nói mộng rằng, “Tôi hiểu Phật pháp.’ Nếu như các ông hành cước với những ý niệm như thế thì có đến năm con lừa cũng chẳng xong.”

Cổ nhân tạm thời niêm lộng, há có kiến chấp về thắng bại đắc thất thị phi sao? Đồng Phong đã từng gặp Lâm Tế.Lúc ấy Đồng Phong xây am trong rừng sâu. Ông tăng này đến đó rồi hỏi, “Ở chỗ này nếu hốt nhiên gặp cọp thì phải làm như thế nào?” Đồng Phong bèn gầm lên như cọp, thầy ta dựa vào sự kiện mà hành động. Ông tăng này cũng biết lấy sai lầm ra đối đãi với sai lầm cho nên mới làm ra vẻ sợ hãi. Đồng Phong bèn bật cười ha hả. Ông tăng nói, “Cái lão tặc này.” Đồng Phong nói, “Thế ông àm gì được lão tăng nào?” Đúng thì đúng song cả hai đều không hiểu thấu. Cho nên từ thiên cổ đến nay thường bị thiên hạ phê bình. Tuyết Đậu nói, “Kể ra thì cũng được, song hai tên ác tặc này chỉ biết bịt tai để ăn trộm chuông mà thôi.” Tuy rằng cả hai đều là kẻ trộm, song gặp cơ lại chẳng dụng được; cho nên họ mới giống như những kẻ bịt tai để ăn trộm chuông. Hai lão này giống như bầy trận với trăm vạn quân, song lại chỉ tranh nhau cái chổi.

Nếu như muốn luận về sự việc này thì phải có khả năng giết người không chớp mắt mới được. Nếu như các ông xưa nay chỉ biết buông mà không biết giữ, chỉ biết sát mà không biết hoạt, khó mà tránh bị thiên hạ cười chê. Tuy là thế osng các cổ nhân cũng chẳng có đa sự gì. Nhìn xem hai người họ, đều là thấy cơ mà hành động Ngũ Tổ nói về thần thông duhí tam muội, huệ cự tam muội, trang nghiêm vương tam muội. Chỉ vì người đời sau gót chân không chấm đất, chỉ trích cổ nhân nói rằng có đắc có thất. Có kẻ nói rõ rằng là Đồng Phong Am Chủ bị trật khờp song chẳng có gì là nhằm nhò.

Tuyết Đậu nói, “Khi hai người này gặp nhau cả hai đều có chỗ buông bỏ. Ông tăng kia nói, “Ở đây hốt nhiên gặp cọp thì phải như thế nào?” Đồng Phong bèn gầm lên như cọp, đó chính là buông bỏ. Cho đến khi nói, “Ông làm gì được lão tăng nào?” Đây cũng là buông bỏ. Mỗi hành động đều rơi vào cơ thứ nhì. Tuyết Đậu nói” Muốn dụng thì dụng.” Người đời này nghe nói như thế bèn nói rằng lúc ấy Đồng Phong đang thi hành lệnh. Song cũng không được mù quánggia hình phạt.

Đức Sơn đánh bất cứ kẻ nào mới nhập môn, Lâm Tế thì hét lên với bất cứ kẻ nào mới nhập môn. Thử nói xem, ý của các cổ nhân là gì? Cuối cùng Tuyết Đậu cũng chỉ tụng ra như thế. Thử nói xem, rồt cuộc phải làm thế nào để tránh khỏi” bịt tai đi ăn trộm chuông.”

TỤNG

Thấy mà không nắm,

Ngàn dặm suy nghĩ.

Thật là sặc sỡ,

Chưa đủ móng răng.

Há không thấy Đại Hùng sơn hạ hốt tương phùng?

Âm thanh ánh sáng rung trời đất,

Đại trượng phu có thấy không?

Nắm đuôi cọp hề vuốt râu cọp.

BÌNH: “Thầy mà không nắm, ngàn dặm suy nghĩ.” Chính vào lúc nguy hiểm ông tăng kia lại không sử dụng được. Lúc Đồng Phong nói, “ Thế ông làm gì được lão tăng nào?” Lẽ ra ông tăng phải trả miếng. Lúc ấy nếu như ông ta trổ được tài nghệ của mình ra, hẳn ông ta đã có lời cuối cùng. Hai người chỉ biết buông bỏ mà không biết thu vào. “Thấy mà không nắm” thì nó đã mây trắng ngoài ngàn dặm rồi. Tại sao còn phải nói “ngàn dặm suy nghĩ”?

“Thật là sặc sỡ, chưa đủ móng răng.” Đúng thì có đúng, song cọp cũng biết giấu răng thu móng. Làm gì được khi mà nó không biết cắn người.

“Há không thấy Đại Hùng sơn hạ hốt tương phùng? Âm thanh ánh sáng rung trời đất.” Một hôm Bách Trượng hỏi Hoàn Bá, “Từ đâu tới?” Hoàng Bá nói, “Đi hái nấm từ dưới núi tới.” Bách Trượng nói, “Có thấy cọp không?” Hoàng Bá bèn gầm lên như cọp. Bách Trượng bèn rút búa ở bên hông ra làm thế như thể đang chém. Hoàng Bá nắm chặt lấy roi đánh Bách Trượng. Chiều đến Bách Trượng thượng đường nói, “ Dưới núi Đại Hùng có một con cọp, các ông ra vào phải nên nhìn kỹ. Hôm nay chính lão tăng vừa bị nó cắn cho một miếng.”

Sau đó Qui Sơn hỏi Ngưỡng Sơn, “Câu chuyện cọp của Hoàng Bá có nghĩa là gì?” Ngưỡng Sơn nói, “Thế tôn ý của hòa thượng thì như thế nào?” Ngưỡng Sơn nói, “Lúc ấy lẽ ra Bách Trượng phải chém một búa cho rồi, thì đâu có đến nỗi như bây giờ?” Ngưỡng Sơn nói, “Không phải như thế.” Qui Sơn nói, “Thế thầy nghĩ sao?” Ngưỡng Sơn nói, “Không những thầy ta cưỡi đầu cọp mà còn biết nắm đuôi cọp.” Qui Sơn nói, “Huệ Tịch quả thật có rất nhiều câu vời vợi quá.” Tuyết Đậu dẫn dụng để giải minh công án trên kia.

“Âm thanh ánh sáng rung trời đất.” Cái này chuyển biến tự tại. Tuyết Đậu muốn trong câu có con đường xuất thân. “Đại trượng phu có thấy hay không?” Các ông có thấy không? “Nắm đuôi cọp hề vuốt râu cọp.” Cần phải là phận sự của riêng mìn. Dù cho các ông có nắm đuôi cọp vuốt râu cọp, cũng khó tránh khỏi một lúc bị xỏ lỗ mũi.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12478)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10345)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12322)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11624)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28781)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12026)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12992)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11431)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12348)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17430)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52991)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35471)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21367)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10671)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19215)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12395)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26015)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13304)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14354)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16065)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13721)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16821)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17552)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13110)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12511)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11600)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11588)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14489)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20440)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18965)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19531)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18620)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12173)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12288)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13833)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14998)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15024)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13976)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15505)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11387)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17160)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14959)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20174)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14603)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13824)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11692)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15042)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12977)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22845)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14541)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11641)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13147)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16853)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18321)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11928)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11487)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15830)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12863)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18887)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18409)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant