Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tắc thứ Tám Mươi Sáu: Quang Minh Của Vân Môn

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15536)
Tắc thứ Tám Mươi Sáu: Quang Minh Của Vân Môn

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 9

TẮC THỨ TÁM MƯƠI SÁU

QUANG MINH CỦA VÂN MÔN

 

THÙY: Cầm chắc thế giới, không chút sơ hở. Cắt đứt các dòng, không còn một giọt. Mở miệng là sai, so đo là trái. Thử nói xem, thế nào là con mắt nhìn thấu quan? Thử nêu lên xem.

CỬ: Vân Môn có lời dạy rằng, “Mọi người ai cũng có quang minh cả.Lúc nhìn thì không thấy gì mà chỉ thấy tối om om. Thế nào là cái quang minh trong mọi người?” Vân Môn tự trả lời rằng, “Nhà bếp và cổng tam quan.” Lại nói, “Việc tốt không bằng không.”

BÌNH: Trong phòng của mình Vân Môn có lời dạy để tiếp thiên hạ rằng, “Tất cả mọi người trong các ông đang đứng ngay đây, ai cũng có một ánh sáng rực rỡ xưa nay chưa từng dứt, vượt lên trên tri kiến. Tuy là qung minh, song lúc bị hỏi thì lại không hiểu. Như thế há không phải là tối o mom sao?” Dạy như thế suốt hai mươi năm mà chẳng có ai hiểu.

Sau đó Hương Lâm mời Vân Môn nói hộ, Vân Môn nói, “Nhà bếp có cổng tam quan.” Lại cũng nói, “Việc tốt không bằng không.” Bình thường lời nói hộ cho người khác chỉ có một câu, tại sao ở đây lại có hai câu? Câu đầu là chỉ để mở ra một con đường cho các ông thấy. Nếu như các ông là các hảo hán thì vừa nghe đề cập tới là cũng đủ phấn khởi hành động rồi. Vân Môn sợ thiên hạ bị vướng mắc ở đây, cho nên mới nói, “Việc tốt không bằng không.” Thầy ta vẫn cứ quét sạch cả cho các ông như trước.

Người bây giờ vừa nghe nói đến quang minh đã trợn mắt lên nói, “Đâu là nhà bếp? Đâu là cổng tam quan?” Song chẳng có gì là nhằm nhò cả. Cho nên mới có câu nói rằng, “Biết giữ ý đầu câu, đừng nhận điểm giữa cán.” Việc này không ở nơi mắt mà cũng chẳng ở nơi cảnh. Muốn hiểu được các ông cần phải tuyệt tri kiến, quên đắc thất, thánh thoát tự tại, mọi người ai nấy phải tự chiên nghiệm lấy.

Vân Môn nói, “Lai vãng ban ngày, biện người ban ngày. Hốt nhiên nửa đêm không mặt trời mặt trăng hay ánh đèn. Nếu như là nơi đã đến rồi thì còn không sao; còn nếu như là một chỗ lạ thì liệu các ông có nắm giữ được một vật gì không?” (Thạch Đàu viết trong bài) Tham Đồng Khế rằng: “Ngay trong sáng có tối, đừng coi đó là tối. Ngay trong tối có sáng, đừng coi đó là sáng.”

Nếu cắt đứt (tất cả các thiên chấp về) sáng và tối, thử nói xem đó là cái gì vậy? Cho nên mới có câu nói, “Tâm hoa phát ánh sáng, chiếu khắp các quốc độ mười phương.” Bàn Sơn nói, “Ánh sáng không chiếu trên đối tượng, đối tượng cũng chẳng tồn tại. Quên cả ánh sáng và đối tượng đi thì là vật gì vậy?” Lại nói rằng, “Thấy nghe này không là thấy nghe, chẳng thanh sắc khác để trình ngài. Nếu như hiểu được là vô sự, thể dụng tự nhiên phân chẳng phân.”

Chỉ cần hiểu câu cuối cùng của Vân Môn thì tha hồ mà du hí trong những câu trư1ơc. Song rốt cuộc không được chấp trước nơi đó. Duy Ma Cật nói, “Lấy vô trụ bổn, lập nhất thiết pháp.” Các ông cũng không được dựa vào đó mà chơi rỡn với ánh sáng với ma quỉ. Song cũng khởi hữu kiến lớn như núi Tu Di còn hơn là khởi vô kiến bằng một hạt cải.”[1]Những người trong nhị thừa[2] thường hay rơi vào một trong hai kiến chấp này.

TỤNG

Tự chiếu sáng một mình,

Vì ngài thông một lối.

Hoa rơi cây không bóng,

Lúc nhìn ai không thấy?

Thấy không thấy,

Cưỡi trâu ngược hề vào Phật điện.

BÌNH: “Tự chiếu sáng một mình.” Từ ngay dưới chân chỗ các ông đứng vốn đã có ánh quang minh này; chỉ có điều cái dụng bình thường của các ông là tối mà thôi. Cho nên Vân Môn Đại Sư mới trải ánh sáng ra ngay trước mặt các ông. Song thử nói xem, cái quang minh của các ông là gì? “ Nhà bếp và cổng tam quan.” Đó chính là chỗ mà Vân Môn phô bầy cái quang minh cô độc này ra. Bàn Sơn nói, “Ánh trăng của tâm thì tròn và đơn độc, quang minh của nó nuốt trọn vạn tượng.” Đây đúng là chân thường độc lộ.

Sau đó “vì ngài thông một lối.” Vân Môn vẫn còn sợ thiên hạ sẽ chấp trước nơi “nhà bếp và cổng tam quan.” Tạm thời với nhà bếp và cổng tam quan đi, song lúc hoa buổi sáng rụng và cây không có bóng, lúc mặt trời lặn mặt trăng mờ, cả trời đất tối om om, các ông có còn thất được chăng? “ Lúc nhìn ai không thấy? ”Thử nói xem, ai là người không thấy? Đến chỗ này khi mà “trong sáng có tối, trong tối có sáng,” giống như thể bước trước bước sau, các ông phải tự chính mình thấy.

Tuyết Đậu nói, “Thấy không thấy,” hay tụng, “Việc tốt không bằng không. ”Hợp với cái thấy lại không thấy, hợp với ánh sáng thì không sáng.

“Cưỡi trâu ngược hề vào Phật điện.” Thầy ta vào trong cái thùng đen rồi. Các ông cần phải tự cưỡi trâu vào điện Phật mới có thể thấy được thầy ta muốn nói gì.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14764)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11827)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12758)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10341)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12067)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15294)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11079)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10536)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12473)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16428)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14310)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11787)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14802)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12030)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16854)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11587)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12736)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11343)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12058)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52120)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15466)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13967)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11442)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13180)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12787)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13220)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17910)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12453)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12655)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54206)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14425)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9933)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13824)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57969)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14498)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20142)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13788)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15402)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17494)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13314)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11932)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13488)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14669)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12492)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12155)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12063)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13289)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12541)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13658)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13322)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25600)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12177)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14559)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11860)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42072)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28338)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38803)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14721)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12699)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16239)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant