Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tắc thứ Chín Mươi Sáu: Ba Chuyển Ngữ Của Triệu Châu

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15274)
Tắc thứ Chín Mươi Sáu: Ba Chuyển Ngữ Của Triệu Châu

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 10

TẮC THỨ CHÍN MƯƠI SÁU

BA CHUYỂN NGỮ CỦA TRIỆU CHÂU

 

CỬ: Triệu Châu dùng ba chuyển ngữ để dạy chúng.

BÌNH: Sau khi dạy ba chuyển ngữ xong, cuối cùng Triệu Châu nói, “Chân Phật ngồi trong nhà.” Câu nói náy hết sứctế nhị. Cổ nhân đưa một mắt ra, với một tay ra để tiếp thiên hạ; tạm mượn vào lời nói này để diễn đạt một ý niệm, vì muốn giúp thiên hạ. Nếu như các ông lại đế cả chính lệnh lên, ắt là mọc cỏ cao một trượng trước Pháp đường. Tuyết Đậu không thích câu cuối lậu đậu quá, cho nên bỏ đi mà chỉ tụng câu. Phật bằng bùn mà qua nước thì ắt là bị rã, Phật bằng vàng mà qua ló ắt là bị chảy, Phật bằng gỗ mà qua lửa ắt là bị đốt. Có chỗ nào khó hiểu đâu? Một trăm tắc tụng cổ Tuyết Đậu đầy những dây dưa; chỉ có ba câu này là trực tiếp có khí phách của nạp tăng trong ấy. Chỉ có điều ba câu tụng này cũng rất là khó hiểu. Nếu như các ông thấu qua được ba câu tụng này, miễn cho các ông khỏi phải tham học nữa.

TỤNG

Phật bùn không qua nước,

Thần quang chiếu thiên địa.

Trong tuyết nếu chưa thôi,

Có ai không giả tạo?

BÌNH: “Phật bùn không qua nước, thần quang chiếu thiên địa. Một câu này cũng đủ tụng phân minh rồi; song thử nói xem tại sao thầy ta lại dẫn Thần Quang? Lúc Nhị Tổ (Thần Quang) mới sinh ra, thần quang chiếu sáng cả nhà, trải cao đến tận trời. Một đêm có thần nhân hiện ra nói với Nhị Tổ rằng, “Tại sao lần lửa ở đây lâu thế? Giờ đắc đạo của ngài đã đến rồi, mau đi về phương nam đi thôi.” Nhị Tổ vì gặp gỡ với thần nhân, cho nên mới có tên là Thần Quang. Thần Quang ở đất Y Lạc một thời gian khá lâu, học rộng tất cả các thứ sách vở, thường hay thở than rằng, “Đạo Khổng và đạo Lão chỉ truyền dạy phong tục và qui củ. Gần đây nghe có Đạt Ma Đại Sư trụ trì Thiếu Lâm. ”Bèn đến đó sớm hôm xin tham kiến. Đạt Ma chỉ ngồi thẳng quay mặt vào vách chẳng hề giảng dạy gì cả. Thần Quang tự nhủ, “Người đời xưa cầu đạo, bẻ xương moi tủy, trích máu cứu đói, xõa tóc che bùn, lao mình từ đỉnh cao, xả thân cứu cọp đói. Người đời xưa mà còn như thế, mình thì sao đây?”

Năm ấy vào đêm mồng chín tháng mười hai có trận tuyết lớn. Nhị Tổ đứng dưới thềm cho đến sáng tuyết ngập đến tận đầu gối. Đạt Ma thương hại hỏi, “Ông đứng dưới tuyết như thế, chẳng hay muốn cầu việc gì vậy?” Nhị Tổ nhỏ lệ nói, “Chỉ nguyện xin Thầy từ bi khai mở cam lộ môn, quảng độ quần sinh.” Đạt Ma nói, “Diệu đạo của chư Phật, đòi hỏi phải chuyên cần bao nhiêu kiếp, thực hành những cái khó thực hành, nhẫn thụ những cái không thể nhẫn thụ; há có thể lấy tiểu đức tiểu trí, khinh tâm mạn tâm mà mong đạt được chân thừa,làm gì có chuyện ấy.” Nhị Tổ nghe lời dạy như thế, tâm cầu đạo càng tha thiết hơn nữa, bèn lén lấy dao cắt đứt tai trái dâng lên trước mặt Đạt Ma. Đạt Ma biết đó là bậc pháp khí, bèn hỏi, “Ông đứng dưới tuyết rồi chặt tay như thế, chẳng hay vì việc gì vậy?” Nhị Tổ nói, “ Tâm con chưa an, cúi xin Thầy an tâm cho.” Đạt Ma nói, con chưa an, cúi xin Thầy an tâm cho.” Đạt Ma nói, “Đem tâm ông ra đây, rồi ta an cho.” Nhị Tổ nói, “Tìm tâm mãi mà không tìm ra.” Đạt Ma nói, “Ta an tâm cho ông rồi đó.” Sau đó Đạt Ma đổi tên cho Thần Quang thành Huệ Khả. Sau đó Huệ Khả tiếp thụ Tam Tổ là Tăng Sán Đại Sư.

Cho nên Tuyết Đậu nói, “Trong tuyết nếu chưa thôi, có ai không giả tạo?” Những kẻ giả tạo đều bắt chước Thần Quang đứng trong tuyết, đâm ra thành thời thượng bề ngoài, đó chỉ là một bọn xiểm ngụy mà thôi. Tuyết Đậu tụng “Phật bùn không qua nước,” tại sao lại dẫn câu chuyện này ra? Thầy ta tham Thiền được đến mức độ trong ý căn không còn một sự việc gì nữa,hoàn toàn tự tại thánh thoát, cho nên mới tụng được như vậy.

Ngũ Tổ thường dạy thiên hạ quán ba câu tụng này. Há không nghe Động Sơn Thủ Sơ hòa thượng có bài tụng dạy chúng rắng, “Trên đỉnh Ngũ Đài mây là cơm, phía trước Phật đường chó đái ngược. Bánh rán trên đầu gậy trúc, ba con khỉ đếm tiền đêm. Đỗ Thuận Hòa Thượng nói, “Bò Hoài Châu ăn lúa, ngựa Ích Châu căng bụng. Tìm thầy thuốc khắp nơi, châm đùi trái của lợn.” Phó Đại Sĩ tụng, “Tay không cầm cái mai, đi bộ cưỡi lưng trâu. Người lững thững qua cầu, cầu trôi nước chẳng trôi.” Lại nói rằng, “Người đá nếu giống ông, cũng biết hát nghêu ngao. Nếu ông giống người đá, phải hát họa lẫn nhau.” Nếu như các ông hiểu được những lời này thì mới hiểu được tụng của của Tuyết Đậu.

TỤNG

Phật vàng không qua lò,

Người đến thăm Tử Hồ.

Trên bảng một vài chữ,

Gió mát chốn nào không?

BÌNH: “Phật vàng không qua lò, người đến thăm Tử Hồ. Chỉ một câu cũng đủ kết thúc tụng rồi, tại sao Tuyết Đậu còn phải dẫn thêm câu “ người đến thăm Tử Hồ” nữa? Cần phải có đe và bễ của tay chuyên môn mới được. Tử Hồ Hòa Thượng dựng một tấm bảng trước cổng chùa, trên bảng có viết, “Tử Hồ có một con chó tre thì lấy đầu người, giữa thì lấy bụng người, dưới thì lấy chân người. Tần ngần là sẽ táng thân thất mạng.” Phàm mỗi lần thấy ai mới đến, Tử Hồ bèn hét và nói rằng, “Coi chừng chó!” Ông tăng vừa quay đầu lại ngó, Tử Hồ đã trở về phương trượng. Song thử nói xem, tại sao lại không cắn được Triệu Châu? Một hôm lúc đêm đã khuya, Tử Hồ la ầm trong nhà sau rằng, “Bắt ăn trộm, bắt ăn trộm!” Đụng phải một ông tăng trong bóng tối, Tử Hồ bèn túm lấy ngực ông tăng nói rằng, “Bắt được rồi, bắt được rồi!” Ông tăng nói, “Hòa thượng, đâu có phải là con.” Tử Hồ nói, “Phải đấy, có điều ông không dám nhận mà thôi.” Nếu như các ông hiểu được câu chuyện này, thì tôi để mặc cho các ông cắn chết hết mọi người trong thiên hạ. Chỗ nào gió trong cũng lạnh căm. Nếu như không hiểu được thì các ông chẳng làm được gì “một vài chữ trên bảng” kia. Nếu như muốn thấy thầy ta, thì phải thấu qua mới có thể thấy ý nghĩa của bài tụng được.

TỤNG

Phật gỗ không qua lửa,

Thường nghĩ ông phá lò.

Cây gậy hốt nhiên đánh,

Mới hay cô phụ mình.

BÌNH: “Phật gỗ không qua lửa, thường nghĩ ông phá lò.” Chỉ một câu là đủ tụng xong. Tuyết Đậu bởi vì “Phật gỗ không qua lửa” cho nên mới thường “nghĩ đến ông phá lò.” Tung Sơn “Phá Lò” hòa thượng không ai biết danh tính thật là gì, ngôn hành thâm sâu khôn dò, ẩn cư trên Tung Sơn. Một hôm dẫn đồ chúng đi thăm dân bản xứ. Dân bản xứ nyà có một cái miếu cho là rất linh, trên điện chỉ đặt mỗi một cái lò, xa gần đến cúng kiếng không ngớt, giết chết rất nhiều sinh vật. Sư vào miếu lấy gậy gõ lên lò ba cái rồi nói, “Ôi, mi vốn chỉ là gạch và đất làm thành, linh từ đâu tới, thánh từ đâu khởi, làm gì mà mi có quyền giết chết sinh mạng như thế?” Nói xong lại đánh thêm ba cái nữa. Lò bèn tự đổ rồi tan tành. Trong khoảnh khắc có một người mặc áo xanh đội mũ cao hốt nhiên xuất hiện trước mặt Sư, vái rồi nói, “Tôi là thần lò, lâu nay chịu nghiệp báo, hôm nay nhờ thầy nói vô sinh pháp, cho nên được siêu thoát khỏi nơi này, được sinh trên trời, do đó đặc biệt đến để cảm tạ.” Sư nói, “Đó là tính bổn hữu của ông, không phải do tôi cuỡng nói đâu.” Thần lò lại lậy nữa rồi biến mất.

Thị giả nói, “Bọn chúng tôi tham học với hòa thượng đã lâu mà chưa được chỉ thị, ông thần lò kia được dương ta gì mà được sinh lên cõi trời như thế?” Sư nói, “Tôi chỉ nói với ông ta rằng mi vốn chỉ là gạch và đất làm thành, linh từ đâu tới, thánh từ đâu khởi?” Ông tăng không nói gì được. Sư nói, “Ông hiểu không?” Ông tăng nói, “Không hiểu.” Sư nói, “Lạy đi!” Ông tăng cúi lạy. Sư nói, “Vỡ đi, vỡ đi, Đổ đi, đổ đi.” Ông tăng thị giả kia hốt nhiên ngộ đại.

Sau đó có ông tăng thuật lại chuyện trên cho An Quốc Sư. Quốc Sư tán thán rằng, “Người này hiểu rốt ráo nguyên lý vật ngã nhất như.

Thần lò ngộ được cho nên mới chư vậy. Ông tăng kia thân cũng là do ngũ uẩn tạo thành, cho nên Sư cũng nói, “Vỡ đi, vỡ đi. Đổ đi, đổ đi.” Cả hai đều khai ngộ song thử nói xem tứ đại ngũ uẩn với gạch ngói bùn đất là giống hay là khác? Nếu đã như thế thì tại sao Tuyết Đậu lại nói, “Cây gậy hốt nhiên đánh, mới hay cô phụ mình”? Tại sao lại biến thành kẻ cô phụ (chính mình)? Chỉ vì chưa đạt được gậy mà thôi.

Thử nói xem, Tuyết Đậu tụng “Phật gỗ không qua lửa.” tại sao lại dẫn công án phá lò? Lão tăng xin giải thích trực tiếp giải thích cho các ông, ý của thầy ta chỉ nhắm cắt đứt đắc thất, thiên chấp. Chỉ khi nào tự tại thánh thoát, các ông mới thấy được chỗ tha thiết của thầy ta.
Phần 10

TẮC THỨ CHÍN MƯƠI MỐT

TÊ GIÁC CỦA DIÊM QUAN

THÙY: Siêu tình ly kiến, cởi giây gỡ dính, đề khởi hướng thượng tông thừa, chống đỡ chính pháp nhãn tạng. Cần phải ứng đủ mười phương, rõ ràng tám hướng, đến thẳng cảnh giới như thế. Thử nói xem, còn có người cùng đắc cùng chứng cùng tử cùng sinh chăng? Thử nêu lên xem.

CỬ: Một hôm Diêm Quan gọi thị giả, “Đem cho tôi cái quạt sừng tê giác xem.” Thị giả nói, “ Quạt bị gẫy rồi.” Diêm Quan nói, “ Nếu như quạt gẫy rồi thì ông đem tê giác lại cho tôi đi.” Thị giả không trả lời được.

Đầu Tử nói, “ Không phải là tôi từ chối đem tới mà chỉ e rằng sừng trên đầu nó không toàn vẹn.” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Tôi muốn cặp sừng không toàn vẹn.”

Thạch Sương nói, “ Nếu như tôi đem nó lại cho hòa thượng thì tôi lại không có nữa.” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Con tê giác vẫn còn đó.”

Từ Phúc vẽ một vòng tròn rồi viết một chữ “tê” trong ấy. Tuyết Đậu niệm rằng, “ Vừa rồi đây tại sao không dắt nó tới?”

Bảo Phúc nói, “ Hòa thượng lớn tuổi rồi, đừng hỏi người khác nữa có hơn không?” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Tiếc thay mất công mà chẳng được gì cả.”

BÌNH: Một hôm Diêm Quan gọi thị giả, “Đem cái quạt sừng tê giác đến cho tôi xem.” Việc này tuy không thuộc nơi ngôn ngữ, song nếu như muốn thử cái ý khí bình sinh của một người lại cũng cứ cần phải mượn vào ngôn ngữhiển thị. Vào ngày cuối cùng tháng cuối cùng, nếu như các ông vẫn còn ra sức được làm chủ tình thế được, thì dù cho có vạn cảnh đi nữa các ông vẫn có thể dững dưng nhìn mà chẳng bị đã động, đây có thể được gọi là công dụng không công dụng, sức mạnh không sức mạnh.

Diêm Quan tức là Tề An Thiền Sư, lúc trước có một cái quạt làm bằng sừng tê giác. Lúc đó há Diêm Quan lại không biết rằng cái quạt đã bị gẫy rồi sao? Thầy ta vẫn cố tình hỏi thị giả, thị giả nói, “ Quạt bị gẫy rồi.” Nhìn xem cổ nhân suốt hăm bốn giờ một ngày lúc nào cũng ở trong ấy, luôn luôn tiếp xúc với nó. Diêm Quan nói, “ Nếu như quạt gẫy rồi thì ông đem tê giác lại cho tôi đi.” Thử nói xem, Diêm Quan mướn tê giác để làm gì? Thầy ta chỉ muốn thử thách người khác xem họ có hiểu ý chỉ của công án hay không mà thôi.

Đầu Tử nói, “ Không phải là tôi từ chối đem nó tới mà chỉ e rằng sừng trên đầu nó không toàn vẹn.” Tuyết Đậu nói, “ Tôi muốn cặp sừng không toàn vẹn.” Thầy ta cũng dùng cơ biến ra đối lại trong câu nói ấy.

Thạch Sương nói, “Nếu như tôi đem nó lại cho hòa thượng thì tôi lại không có nó nữa.” Tuyết Đậu nói, “ Con tê giác vẫn còn đó.”

Từ Phúc vẽ một vòng tròn rồi viết một chữ “tê” trong ấy, bởi vì thầy ta là người thừa tự của Ngưỡng Sơn, cho nên bình sinh rất thích dùng cảnh để tiếp thiên hạ. Tuyết Đậu nói, “ Vừa rồi đây tại sao không dắt nó tới?” Xỏ luôn cả lỗ mũi của Từ Phúc.

Bảo Phúc nói, “ Hòa thượng lớn tuổi rồi, đừng hỏi người khác nữa có hơn không?” Lời nói nói ra một cách hết sức ẩn mật ổn thỏa. Ba lời trên vốn dễ thấy, chỉ có lời này là có ý nghĩa thâm sâu. Tuyết Đậu cũng đã phả luôn cả nó. Sư núi tôi lúc ở nơi của Khánh Tàng Chủ đã hiểu được. Thầy ta nói, “ Hòa thượng tuổi lớn già cả, được đầu quên đuôi, vừa rồi tìm cây quạt bây giờ lại kiếm tê giác. Thật là khó mà chiều ỳ, cho nên Bảo Phúc mới nói, “ Hòa thượng đừng hỏi người khác nữa có hơn không.” Tuyết Đậu nói, “ Tiếc thay mất công mà chẳng được gì cả.”

Tất cả những lời này đề thuộc vào cách thức “ hạ ngữ” ( nhận xét). Các cổ nhân nhìn thấu sự việc này, tuy rằng mỗi người khác nhau, song mỗi khi nói ra là đều bách phát bách trùng, luôn luôn có con đường xuất thân, chẳng câu nào lạc mất huyết mạch ( của tông môn) cả. Người thời nay mà bị hỏi là chỉ biết lý luận so đo, cho nên tôi mới muốn thiên hạ phải nhai nghiến vấn đề này suốt hăm bốn tiếng đồng hồ một ngày, khiến cho mọi giọt nước đều thành một giọt nước đá, tầm cầu chỗ chứng ngộ. Xem Tuyết Đậu tụng thành một chuỗi rằng:

TỤNG

Chiếc quạt tê giác dùng từ lâu,

Hỏi đến té ra chẳng ai biết.

Gió mát vô hạn với cặp sừng,

Giống như mây mưa qua khó theo.

Tuyết Đậu lại nói , “ Nếu như các ông muốn gió mát trở lại cặp sừng mọc lại , tôi xin mời các Thiền khách mỗi người nói một chuyển ngữ. Quạt đã gẫy rồi tôi muốn các ông đem tê giác lại cho tôi. Lúc ấy có ông tăng bước ra nói, “ mời đại chúng vào cả tham Thiền đường đi.” Tuyết Đậu hét nói, “ Thả câu câu kình ngư lại bắt được nhái bén.” Rồi xuống khỏi tòa.

BÌNH: “ Chiếc quạt tê giác dùng từ lâu, hỏi đến té ra chẳng ai biết.” Ai cũng có một chiếc quạt sừng tê giác, suốt hăm bốn giờ một ngày đều được nó đắc lực, tại sao lúc hỏi đến lại chẳng ai biết? Thị giả, Đầu Tử cho đến Bảo Phúc chẳng một ai biết cả. Tuyết Đậu có biết không?

Há không nghe Vô Trước đến thăm Văn Thù, lúc họ đang uống trà, Văn Thù dơ chén pha lê lên hỏi, “ Phương nam có có cái này không?” Vô Trước nói, “ Không”. Văn Thù nói, “ Bình thường họ dùng gì để uống trà?” Vô Trước không nói gì được.Nếu như các ông hiểu được cốt yếu của công án này, các ông sẽ biết được rằng sừng tê giác có vô hạn gió mát, lại cũng thấy được cặp sừng lừng lững trên đầu tê giác.

Bốn lão hán này ăn nói như vầy giống nư mây sớm mưa chiều; một khi đã qua khó mà đuổi theo được. Tuyết Đậu lại nói, “ Nếu như các ông muốn gió mát trở lại cặp sừng mọc lại, tôi xin mời các Thiền khác mỗi người nói một chuyển ngữ. Quạt đã gẫy rồi tôi muốn các ông đem tê giác lại cho tôi.” Lúc ấy một Thiền khách bước ra nói, “ Mời đại chúng vào cả tham Thiền đường đi.” Ông tăng này đoạt mất quyền bính của người chủ. Tuy rằng ông ta nói được một cách hết sức là xít xao song lại chỉ mới nói được có tám phần mà thôi. Nếu như các ông muốn cả mười phần, thì cứ lật đổ giường Thiền cho ông ta. Thử nói xem, ông tăng này có hiểu tê giác hay không? Nếu như không hiểu, ông lại biết cách nói như thế. Nếu như ông ta hiểu, tại sao Tuyết Đậu lại không chịu chấp nhận ông ta? Tại sao Tuyết Đậu lại nói, “ Thả câu câu king ngư lại bắt được nhái bén?”

Thử nói xem, rốt cuộc là như thế nào? Các ông cử chỉ nên vô sự, thử niêm xuyết xem sao!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 188632)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 43777)
Theo phép thọ Bát quan trai giới, người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giới thanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới thì thứ lớp rất nhiều.
(Xem: 25027)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 30800)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21017)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38735)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 27357)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31081)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33093)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23952)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 16961)
Người học luật mà không hành trì, khó mà hiểu hết những điều được học có nghĩa lý gì. Trì luật, không phải chỉ sống thanh bạch một mình trên núi rừng với nai với khỉ...
(Xem: 20494)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 31892)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp...
(Xem: 18078)
Mục tiêu của đạo đứchạnh phúc, hay nói cách khác, muốn sống có hạnh phúc thì phải sống có đạo đức. Đạo đức phải được xây dựng trên cơ sở những tiêu chuẩn phù hợp...
(Xem: 20534)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27004)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 18037)
Giới bát quan trai được Phật thuyết cho các Thánh đệ tử; những người tuy sống đời tại gia, hưởng thụ ngũ dục của thế gian, nhưng tâm tư đã vững chắc trên Thánh đạo.
(Xem: 25540)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26622)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36561)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 28040)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 27272)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30317)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37079)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 37229)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23858)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 32270)
Nhóm 1: 8 pháp Ba la di Nhóm 2: 17 pháp Tăng tàn Nhóm 3: 30 pháp Xả đọa Nhóm 4: 178 tám pháp Đọa Nhóm 5: 8 pháp Hối quá Nhóm 6: 100 pháp Chúng học Nhóm 7: 7 pháp Diệt tránh.
(Xem: 55112)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 36888)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27553)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28290)
Công Phu Khuya
(Xem: 37930)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 25387)
Giới học là một trong ba học: Giới, Định, Tuệ. Ba học còn được gọi là ba vô lậu học. Gọi là vô lậu học là vì ba học này đưa đến đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến giải thoát...
(Xem: 24123)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
(Xem: 11219)
Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy
(Xem: 14486)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10612)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant