Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tắc thứ Chín Mươi Bảy: Kim Cương Kinh Khinh Tiện

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15171)
Tắc thứ Chín Mươi Bảy: Kim Cương Kinh Khinh Tiện

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 10

TẮC THỨ CHÍN MƯƠI BẢY

KIM CƯƠNG KINH KHINH TIỆN

 

THÙY: Niệm một bỏ một, chưa phải chuyên gia. Cử một hiểu ba, vẫn trái tông chỉ. Dù được trời đất đột biến, bốn phương tuyệt xướng, sấm rền điện chớp, mây bay mưa rào, nghiêng hồ lật núi, bình tháo chậu đổ, vẫn chưa đề lên được một nửa. Còn có ai biết xoay thiên quan chuyển địa trục chăng? Thử nêu lên xem.

CỬ: Kinh Kim Cương nói, “Nếu một người bị kẻ khác khinh rẻ, người ấy kiếp trướctội chướng đáng bị đọa vào ác đạo, song vì kiếp này bị khinh rẻ, tội nghiệp kiếp trước bèn được tiêu trừ.”

BÌNH: Kinh Kim Cương nói, “Nếu một người bị kẻ khác khinh rẻ, người ấy kiếp trướctội chướng đáng bị đọa vào ác đạo , song vì kiếp này bị khinh rẻ, tội nghiệp kiếp trước bèn được tiêu trừ.” Theo lời giải thích bình thường thì đây là đề tài thường luận trong Kinh. Tuyết Đậu nêu lên để tụng ý nghĩa của đoạn kinh này, vì muốn đả phá lối giải thích lầm lạc của các nhà giáo tông. Chiêu Minh Thái Tử [1]nêu đoạn này lên cho rằng nó có công hiệu tiêu trừ nghiệp chướng.

Trong giáo tông đại ý nói rằng Kinh này linh nghiệm như vậy: một người kiếp trước tạo nghiệp địa ngục, song nhờ sức mạnh của nghiệp tốt chưa phải chịu. Do kiếp này bị người khác khinh rẽ, các tôi nghiệp của kiếp trước vì thế mà được tiêu trừ cả. Kinh này do đó có thể tiêu trừ ác nghiệp của vô lượng kiếp, chuyển nặng thành nhẹ, chuyển nhẹ thành bất thụ, lại còn dẫn người ta đến chỗ đắc Phật quả Bồ Đề nữa.

Theo các nhà giáo tông thì lật hơn hai mươi chương Kinh bèn gọi là trì Kinh , nói như thế thì có gì là nhằm nhò? Có kẻ nói Kinh tự có linh nghiệm. Nếu thế, các ông thử lấy một quyển kinh rồi để đại một chỗ nào đó xem có cảm ứng gì không? Pháp Nhãn nói, “Chứng Phật địa mới gọi là trì kinh.” Trong Kinh có nói rằng, “Tất cả chư Phật và A Nậu Đa La Tam Miêu Tam Bồ Đề[2] của chư Phật đều phát xuất từ Kinh này.” Song thử nói xem gọi là “ kinh này” là gì vậy? Phải chăng chỉ là giấy vàng trên trục đỏ? Đừng nên nhận lầm điểm giữa cán cân.

Kim Cương được coi là Pháp thể kiên cố, bởi vì không vật gì có thể hủy hoại nó được, nó lại sắc bén có thể cắt được bất cứ vật gì. Đặt nó lên núi thì núi sập; đặt nó vào biển thì biển cạn. Cho nên lấy đó làm tên kinh, Pháp của kinh cũng thế.

Bát nhã[3] có ba loại: thứ nhất, thực tướng Bát Nhã; thứ nhì, quán chiếu Bát nhã; thứ ba, văn tự Bát Nhã. Thực tướng Bát Nhãchân trí, chính là một đại sự ngay dưới chân các ông, sáng rực kim cổ, siêu việt tri kiến, tự tại thánh thoát. Chiếu kiến Bát nhãchân kinh, suốt hăm bốn giờ một ngày chiếu sáng và rung chuyển mặt đất, nghe âm thanh và thấy hình sắc. Văn tự bát nhã tức là văn tự để diễn giả, tức là người nói và người nghe hiện giờ đây. Thử nói xem, đó là Bát nhã hay không phải là Bát nhã? Cổ nhân nói, “Mọi người đều có một quyển kinh.” Lại nói, “Tay không cầm quyển kinh, song luôn luôn lật kinh ấy.”

Nếu như dựa vào cái linh nghiệm của Kinh nầy, tại sao lại ngưng nói chuyển nặng thành nhẹ chuyển nhẹ thành bất thụ? Cho dù có ngang được với những bậc thánh đi nữa, cũng đã có gì là kỳ đặc? Há không nghe Bàng Cư Sĩ nghe giảng Kinh Kim Cương, hỏi vị tòa chủ, “kẻ tục nhân này có một câu hỏi nhỏ, không hiểu có được không?” Tòa chủ nói, “Ông có điều gì nghi ngờ thì cứ việc hỏi.” Bàng Cư Sĩ nói, “Vô ngã tướng vô nhân tướng, đã vô ngã tướng vô nhân tướng thì ai thuyết ai nghe đây?” Tòa chủ không trả lời được mà chỉ nói,” Tôi chỉ dựa vào văn tự để giải nghĩa thôi chứ không hiểu ý của câu đó.” Bàng Cư Sĩ bèn làm bài tụng rằng, “Vô ngã và vô nhân, làm sao có sơ thân? Khuyên ngài đứng giảng giải, sao bằng tìm chân thật? Kim Cương Bát Nhã tính, bên ngoài không bụi trần. Tôi nghe tôi tin nhận, chỉ là giả danh thôi.” Bài tụng này tuyệt hết sức, trong một lúc đã nói rõ cả ra.

Khuê Phong giảng tứ cú kệ, “Phàm sở hữu tướng đều là hư vọng, nếu thấy tướng không phải là tướng tức là thấy Như Lai.” Tứ cú kệ này ý nghĩa hoàn toàn giống với ý nghĩa của câu, “Chứng được Phật địa mới gọi là trì kinh.” Kinh cũng nói rằng, “Nếu lấy sắc để thấy ta lấy âm thanh để nghe ta, người ấy hành tà đạo, không thấy được Như Lai.” Đây cũng là một tứ cú kệ, song ở đây chỉ trích ra những câu mà ý nghĩa vẹn toàn thôi. Có ông tăng hỏi Hối Đường, “Tứ cú kệ là gì?” Hối Đường nói, “Chỉ nói mà không hiểu.”

Tuyết Đậu dựa vào kinh mà chỉ ra. Nếu như có người trì kinh này, thì đó là bổn địa phong quang của mọi người, bổn lai diện mục; Song nếu các ông dựa vào Tổ lệnh mà hành sự thì bổn địa phong quang và bổn lai diện mục lập tức bị cắt thành ba đoạn. Mười hai phần giáo của tam thế chư Phật chẳng đáng gì cả. Đến chỗ này rồi thì dù có thập vạn công năng đi nữa cũng chẳng đảm đương nổi. Người thời buổi này chỉ biết lật kinh mà chẳng hiểu ý nghĩa gì cả. Chỉ biết nói, “Một ngày tôi lật được bao nhiêu.” Họ chỉ biết nhìn thấy giấy vàng trục đỏ, theo hàng đếm mực. Đâu có biết rằng tất cả chỉ từ nơi tâm mình khởi lên mà thôi, đây cùng lắm chỉ là chút chuyển xứ mà thôi.

Đại Châu Hòa Thượng nói, “Chất hàng đống kinh trong phòng không thử xem có phóng quang hay không.” Chỉ cái tâm mình trong một niệm phát lên, đó chính là công đức. Tại sao vậy? Bởi vì vạn pháp đều từ nơi tâm mình phát sinh. Một niệm là linh, đã linh tức thông; thông rồi bèn biến. Cổ nhân nói, “Tre trúc xanh xanh, đều là chân như, hoa vàng tươi tắn, đều là Bát nhã.” Nếu như các ông nhìn thấu triệt được thì là chân như; còn nếu như chưa nhìn thấu được, thử nói xem, các ông gọi gì là chân như đây? Kinh Hoa Nghiêm nói, “Nếu như muốn liễu tri tam thế nhất thiết Phật, phải biết rằng tất cả pháp giới tính chỉ là tâm đạo mà thôi.” Nếu như các ông hiểu được thì bất cứ trong cảnh ngộ nào nhân duyên nào đều là chủ là tông cả. Nếu như chưa thấy rõ được,nên lắng nghe phân xử. Tuyết Đậu tụng để giải minh cái linh nghiệm của kinh.

TỤNG

Ngọc sáng trong tay,

Có công được thưởng.

Hồ Hán không đến,

Toàn vô kỹ lưỡng.

Đã không kỹ lưỡng,

Ba tuần lạc đường.

Cồ Đàm, Cồ Đàm!

Biết tôi hay không?

Lại nói, “Khám phá ra rồi.”

BÌNH: “ Ngọc sáng trong tay, có công được thưởng.” Nếu như có người trì kinh này một cách công nghiệm, ắt sẽ được thưởng viên ngọc. Người ấy được ngọc này, tự nhiên sẽ biết sử dụng. Hồ đến Hồ hiện, Hán đến Hán hiện, vạn tượng sâm la, tung hoành hiển hiện. Đó chính là có công huân. Pháp Nhãn nói, “Chứng được Phật địa mới gọi là trì kinh.” Hai câu đó là tụng hết công án rồi.

“Hồ Hán không đến, toàn vô kỹ lưỡng.” Tuyết Đậu xoay quanh lỗ mũi. Có Hồ Hán đến thì mới hiện lên, lúc cả Hồ lẫn Hán đều không đến thì như thế nào? Đến chỗ này thì Phật nhãn cũng chẳng nhìn thấy được. Thử nói xem, đó là công trạng hay là tội nghiệp? Là Hồ hay là Hán? Giống như Linh dương mang sừng, đừng nói là không âm thanh, tung tích, ngay cả một hơi thở cũng không có, biết đi về phương nào mà tìm kiếm đây? Đã đến chỗ mà chư thiên không có lối để rải hoa, ngoại mà không có cổng để nhòm ngó. Cho nên Động Sơn hòa thượng trụ viện cả đời, thổ địa thần tìm tung tích của thầy ta mà chẳng thấy. Một hôm có người đánh vãi bột gạo trong bếp, Động Sơn khởi tâm nói, “Tại sao ông dám coi nhẹ tài vật của đại chúng như thế?” Thổ địa thần bèn trông thấy thầy ta, bèn lễ lậy.

Tuyết Đậu nói, “Đã không kỹ lưỡng;” Nếu như các ông đạt đến chỗ vô kỹ lưỡng (khả năng) này thì ngay cả (Ma) ba tuần cũng bị lạc đường. Thế Tôn xem tất cả chúng sinh như con đỏ, nếu như một người phát tâm tu hành, cung điện của Ba Tuần vì thế mà sụp đổ, cho nên Ba Tuần bèn đến mà não hại người tu hành. Tuyết Đậu nói dù cho Ba Tuần đến như thế đi nữa, cũng vẫn bị lạc đường như thường và không có cách chi để đến gần được.

Tuyết Đậu lại nói, “Cồ Đàm, Cồ Đàm! Biết tôi hay không?” Đừng có nói là Ba Tuần, dù cho là Phật đến đi nữa cũng có biết tôi hay không? Ngay cả Đức Thích Ca cũng còn chẳng thấy, các ông biết rờ rẫm ở đâu đây? Lại nói, “Khám phá ra rồi.” Đó là Tuyết Đậu khám phá Cồ Đàm hay là Cồ Đàm khám phá Tuyết Đậu? Những ai có mắt xin thử nhìn cho chắc xem!
Phần 10

TẮC THỨ CHÍN MƯƠI MỐT

TÊ GIÁC CỦA DIÊM QUAN

THÙY: Siêu tình ly kiến, cởi giây gỡ dính, đề khởi hướng thượng tông thừa, chống đỡ chính pháp nhãn tạng. Cần phải ứng đủ mười phương, rõ ràng tám hướng, đến thẳng cảnh giới như thế. Thử nói xem, còn có người cùng đắc cùng chứng cùng tử cùng sinh chăng? Thử nêu lên xem.

CỬ: Một hôm Diêm Quan gọi thị giả, “Đem cho tôi cái quạt sừng tê giác xem.” Thị giả nói, “ Quạt bị gẫy rồi.” Diêm Quan nói, “ Nếu như quạt gẫy rồi thì ông đem tê giác lại cho tôi đi.” Thị giả không trả lời được.

Đầu Tử nói, “ Không phải là tôi từ chối đem tới mà chỉ e rằng sừng trên đầu nó không toàn vẹn.” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Tôi muốn cặp sừng không toàn vẹn.”

Thạch Sương nói, “ Nếu như tôi đem nó lại cho hòa thượng thì tôi lại không có nữa.” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Con tê giác vẫn còn đó.”

Từ Phúc vẽ một vòng tròn rồi viết một chữ “tê” trong ấy. Tuyết Đậu niệm rằng, “ Vừa rồi đây tại sao không dắt nó tới?”

Bảo Phúc nói, “ Hòa thượng lớn tuổi rồi, đừng hỏi người khác nữa có hơn không?” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Tiếc thay mất công mà chẳng được gì cả.”

BÌNH: Một hôm Diêm Quan gọi thị giả, “Đem cái quạt sừng tê giác đến cho tôi xem.” Việc này tuy không thuộc nơi ngôn ngữ, song nếu như muốn thử cái ý khí bình sinh của một người lại cũng cứ cần phải mượn vào ngôn ngữhiển thị. Vào ngày cuối cùng tháng cuối cùng, nếu như các ông vẫn còn ra sức được làm chủ tình thế được, thì dù cho có vạn cảnh đi nữa các ông vẫn có thể dững dưng nhìn mà chẳng bị đã động, đây có thể được gọi là công dụng không công dụng, sức mạnh không sức mạnh.

Diêm Quan tức là Tề An Thiền Sư, lúc trước có một cái quạt làm bằng sừng tê giác. Lúc đó há Diêm Quan lại không biết rằng cái quạt đã bị gẫy rồi sao? Thầy ta vẫn cố tình hỏi thị giả, thị giả nói, “ Quạt bị gẫy rồi.” Nhìn xem cổ nhân suốt hăm bốn giờ một ngày lúc nào cũng ở trong ấy, luôn luôn tiếp xúc với nó. Diêm Quan nói, “ Nếu như quạt gẫy rồi thì ông đem tê giác lại cho tôi đi.” Thử nói xem, Diêm Quan mướn tê giác để làm gì? Thầy ta chỉ muốn thử thách người khác xem họ có hiểu ý chỉ của công án hay không mà thôi.

Đầu Tử nói, “ Không phải là tôi từ chối đem nó tới mà chỉ e rằng sừng trên đầu nó không toàn vẹn.” Tuyết Đậu nói, “ Tôi muốn cặp sừng không toàn vẹn.” Thầy ta cũng dùng cơ biến ra đối lại trong câu nói ấy.

Thạch Sương nói, “Nếu như tôi đem nó lại cho hòa thượng thì tôi lại không có nó nữa.” Tuyết Đậu nói, “ Con tê giác vẫn còn đó.”

Từ Phúc vẽ một vòng tròn rồi viết một chữ “tê” trong ấy, bởi vì thầy ta là người thừa tự của Ngưỡng Sơn, cho nên bình sinh rất thích dùng cảnh để tiếp thiên hạ. Tuyết Đậu nói, “ Vừa rồi đây tại sao không dắt nó tới?” Xỏ luôn cả lỗ mũi của Từ Phúc.

Bảo Phúc nói, “ Hòa thượng lớn tuổi rồi, đừng hỏi người khác nữa có hơn không?” Lời nói nói ra một cách hết sức ẩn mật ổn thỏa. Ba lời trên vốn dễ thấy, chỉ có lời này là có ý nghĩa thâm sâu. Tuyết Đậu cũng đã phả luôn cả nó. Sư núi tôi lúc ở nơi của Khánh Tàng Chủ đã hiểu được. Thầy ta nói, “ Hòa thượng tuổi lớn già cả, được đầu quên đuôi, vừa rồi tìm cây quạt bây giờ lại kiếm tê giác. Thật là khó mà chiều ỳ, cho nên Bảo Phúc mới nói, “ Hòa thượng đừng hỏi người khác nữa có hơn không.” Tuyết Đậu nói, “ Tiếc thay mất công mà chẳng được gì cả.”

Tất cả những lời này đề thuộc vào cách thức “ hạ ngữ” ( nhận xét). Các cổ nhân nhìn thấu sự việc này, tuy rằng mỗi người khác nhau, song mỗi khi nói ra là đều bách phát bách trùng, luôn luôn có con đường xuất thân, chẳng câu nào lạc mất huyết mạch ( của tông môn) cả. Người thời nay mà bị hỏi là chỉ biết lý luận so đo, cho nên tôi mới muốn thiên hạ phải nhai nghiến vấn đề này suốt hăm bốn tiếng đồng hồ một ngày, khiến cho mọi giọt nước đều thành một giọt nước đá, tầm cầu chỗ chứng ngộ. Xem Tuyết Đậu tụng thành một chuỗi rằng:

TỤNG

Chiếc quạt tê giác dùng từ lâu,

Hỏi đến té ra chẳng ai biết.

Gió mát vô hạn với cặp sừng,

Giống như mây mưa qua khó theo.

Tuyết Đậu lại nói , “ Nếu như các ông muốn gió mát trở lại cặp sừng mọc lại , tôi xin mời các Thiền khách mỗi người nói một chuyển ngữ. Quạt đã gẫy rồi tôi muốn các ông đem tê giác lại cho tôi. Lúc ấy có ông tăng bước ra nói, “ mời đại chúng vào cả tham Thiền đường đi.” Tuyết Đậu hét nói, “ Thả câu câu kình ngư lại bắt được nhái bén.” Rồi xuống khỏi tòa.

BÌNH: “ Chiếc quạt tê giác dùng từ lâu, hỏi đến té ra chẳng ai biết.” Ai cũng có một chiếc quạt sừng tê giác, suốt hăm bốn giờ một ngày đều được nó đắc lực, tại sao lúc hỏi đến lại chẳng ai biết? Thị giả, Đầu Tử cho đến Bảo Phúc chẳng một ai biết cả. Tuyết Đậu có biết không?

Há không nghe Vô Trước đến thăm Văn Thù, lúc họ đang uống trà, Văn Thù dơ chén pha lê lên hỏi, “ Phương nam có có cái này không?” Vô Trước nói, “ Không”. Văn Thù nói, “ Bình thường họ dùng gì để uống trà?” Vô Trước không nói gì được.Nếu như các ông hiểu được cốt yếu của công án này, các ông sẽ biết được rằng sừng tê giác có vô hạn gió mát, lại cũng thấy được cặp sừng lừng lững trên đầu tê giác.

Bốn lão hán này ăn nói như vầy giống nư mây sớm mưa chiều; một khi đã qua khó mà đuổi theo được. Tuyết Đậu lại nói, “ Nếu như các ông muốn gió mát trở lại cặp sừng mọc lại, tôi xin mời các Thiền khác mỗi người nói một chuyển ngữ. Quạt đã gẫy rồi tôi muốn các ông đem tê giác lại cho tôi.” Lúc ấy một Thiền khách bước ra nói, “ Mời đại chúng vào cả tham Thiền đường đi.” Ông tăng này đoạt mất quyền bính của người chủ. Tuy rằng ông ta nói được một cách hết sức là xít xao song lại chỉ mới nói được có tám phần mà thôi. Nếu như các ông muốn cả mười phần, thì cứ lật đổ giường Thiền cho ông ta. Thử nói xem, ông tăng này có hiểu tê giác hay không? Nếu như không hiểu, ông lại biết cách nói như thế. Nếu như ông ta hiểu, tại sao Tuyết Đậu lại không chịu chấp nhận ông ta? Tại sao Tuyết Đậu lại nói, “ Thả câu câu king ngư lại bắt được nhái bén?”

Thử nói xem, rốt cuộc là như thế nào? Các ông cử chỉ nên vô sự, thử niêm xuyết xem sao!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12491)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14092)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10840)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10510)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11167)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11975)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13102)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13609)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33628)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11317)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12888)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13028)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11598)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17862)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11399)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11812)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11464)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18950)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12518)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11305)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13122)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15731)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11792)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11678)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12734)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12614)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13928)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12955)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12907)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13266)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12737)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12662)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11708)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11700)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12308)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12371)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19807)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11939)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11975)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16867)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12657)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15050)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16089)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12858)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12206)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11904)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11914)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13135)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16491)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13218)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12467)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11794)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19821)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11135)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11238)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10392)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11071)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10950)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10018)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11726)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant