Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tắc thứ Chín Mươi Tám: Hai Cái Sai Của Thiên Bình Hòa Thượng

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 14811)
Tắc thứ Chín Mươi Tám: Hai Cái Sai Của Thiên Bình Hòa Thượng

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 10

TẮC THỨ CHÍN MƯƠI TÁM

HAI CÁI SAI CỦA THIÊN BÌNH HÒA THƯỢNG

 

THÙY: Suốt một mùa hè tạo dây dưa, kỷ hồ làm vướng ngũ hồ tăng. Kim Cương Bảo Kiếm chém thẳng xuống, mới biết xưa nay thiếu khả năng. Thử nói xem, Kim Cương Bảo Kiếm là gì? Mở mắt ra đi, tôi để lộ lưỡi kiếm cho các ông xem!

CỬ: Lúc Thiên Bình hòa thượng đi hành cước có đến tham kiến Tây Viện. Thường nói rằng, “Đường nói là ông hiểu Phật pháp, tìm một người cử được thoại đầu cũng chẳng ra.” Một hôm Tây Viện trông thấy Thiên Bình từ xa, gọi rằng, “Tùng Ỷ!” Thiên Bình ngẩng đầu. Tây Viện nói, “Sai!” Thiên Bình bước tới hai ba bước, Tây Viện lại nói, “sai!”Thiên Bình bước đến gần; Tây Viện nói, “Hai cái sai vừa rồi, là Tây Viện sai hay là thượng tọa sai?” Thiên Bình nói, “Tùng Ỷ sai.” Tây Viện nói, “Ở đây qua mùa hạ đi, rồi tôi sẽ cùng thượng tọa bàn về hai cái sai kia.” Thiên Bình lúc ấy vẫn bỏ đi.

Sau này lúc trụ viện, Thiên Bình nói với đại chúng rằng, “ Ban đầu lúc tôi đi hành cước , bị gió nghiệp thổi đến tận chỗ Tử Minh Trưởng Lão, Trưởng Lão nói, “Sai!” hai lần liên tiếp, rồi lại giữ tôi qua mùa hạ, để mà bàn luận. Không phải lúc đó tôi mới sai, ngay lúc khởi hành đi phương nam, tôi đã biết là sai rồi.”

BÌNH: Tử Minh thoạt tiên tham học với Đại Giác, sau đó thừa tự Bảo thụ. Một hôm hỏi, “Đập phá hóa thành thì như thế nào?” Bảo Thụ nói, “Kiếm sắc không chém người chết.” Tử Minh nói, “Cắt” Bảo Thụ bèn đánh. Tử Minh nói, “Cắt,” mười lần, Bảo Thụ cũng đánh mười lần và nói, “ Gã này không hiểu vội vã gì mà lại đem người chết ra chịu gậy đau như thế?” Rồi hét và đuổi Tử Minh ra ngoài. Lúc ấy có ông tăng hỏi Bảo Thủ , “Ông tăng vừa rồi hỏi câu hỏi kia có lý vô cùng, xin hòa thượng tiếp ông ta một cách khéo léo.” Bảo Thụ cũng đánh và đuổi ông tăng ra ngoài luôn. Thử nói xem, lúc Bảo Thụ đuổi ông tăng ra ngoài luôn. Thử nói xem, lúc Bảo Thụ đuổi ông tăng kia ra goài, chỉ bởi vì ông ta nói thị nói phi hay còn có lý do gì khác? Ý của thầy ta như thế nào? Sau này cả hai người kia (Tử Minh và ông tăng) đều thừa tự Bảo Thụ.

Một hôm Tử Minh đến gặp Nam Viện, Nam Viện hỏi, “Từ đâu tới?” Tử Minh nói, “Từ Hứa Châu tới.” Nam Viện nói, “Mang được cái gì tới?” Tử Minh nói, “Mang được lưỡi dạo cạo từ Giang Tây đến dâng cho hòa thượng.” Nam Viện nói, “Ông từ Hứa Châu đến tại sao lại có lưỡi dao cạo từ Giang Tây?” Tử Minh cầm tay Nam Viện bẹo một cái. Nam Viện nói, “ Thị giả đâu, lôi ông này ra ngoài xem!” Tử Minh phất tay áo một cái rồi bỏ đi. Nam Viện nói, “Ôi chao!”

Thiên Bình từng đến tham kiến Tiên Sơn. Bởi vì thầy ta đã đikhắp nơi tham được cái Thiền củ cải này để trong bụng, cho nên đến bất cứ đâu cũng mở miệng lớn tiếng nói, “tôi hiểu Thiền, hiểu đạo.” Thường nói, “Đừng nói là hiểu Phật pháp, kiếm một người cử được thoại đầu cũng chẳng có.” Cái thối tha của thầy ta vướng vàongười khác, chỉ tạo nên khinh bạc mà thôi.

Lúc chư Phật chưa xuất thế, Tổ Sư chưa từ Tây Trúc qua, chưa có vấn đáp, chưa có công án, còn có Thiền Đạo chăng? Cổ nhân bất đắc dĩ phải đối cơ mà giảng dạy, người đời sau gọi đó là “ công án”. Nhân Thế Tôn niêm hoa, Ca Diếp mĩm cười, sau đó A Nan hỏi Ca Diếp, “Thế Tôn ngoài việc truyền cà sa vàng còn truyền giáo pháp đặc biệt gì nữa không? Ca Diếp gọi, “A Nan!” A Nan nói, “Vâng?” ca Diếp nói, “Hạ cái cột cờ trước cổng xuống.” Song trước khi niêm hoa, trước khi Ca Diếp hỏi, ở chỗ nào mà có công án đây? Chỉ toàn vị các nơi lấy dấu ấn dưa hấu mà ấn, sau khi bị ấn xong lại nói, “tôi hiểu Phật pháp kỳ đặc, đừng cho người khác biết.”

Thiên Bình chính là như vậy đấy. Bị Tây Viện nói cho “Sai!” hai lần liên tiếp, bèn đâm ra lúng túng hoang mang không phânbiện gì được nữa, đúng là “ trước không đến được làng, sau chẳng đến được tiệm.” Có kẻ nói rằng vừa nói đến ý nghĩa của việc T3ô Sư từ Tây Trúc qua đã là sai rồi, hoàn toàn chẳng hiểu gì ý nghĩa hai cái “sai” này của Tây Viện là gì cả.Các ông thử nói cho tôi xem ý nghĩa của (hai cái “sai”này) là gì? Cho nên mới có lời nói rằng, “ Thầy ta tham câu sống không tham câu chết.” Thiên Bình vừa ngẩng đầu đã rơi ngay vào hai vào ba rồi. Tây Viện nói, “Sai!” Song (Thiên Bình) lại không hiểu được dụng xứ trực tiếp (của Nam Viện) mà lại chỉ nói, “Tôi có đầy một bnịg Thiền,” rồichẳng để ý đến Tây Viện,lại bước thêm hai ba bước nữa. Tây Viện lại nói, “Sai!” Thiên Bình vẫn cứ tối mò như thường và tiến đến gần Tây Viện. Tây Viện nói, “Hai cái sai vừa rồi là Tây Viện sai hay là thượng tọa sai?” Thiến Bình nói, “Tùng Ỷ sai.” May mà chẳng có gì là nhằm nhò cả. Thiên Bình đã rơi nhay vào thứ bẩy thứ tám rồi. Tây Viện nói, “Ở đây qua mùa hạ đi, rồi tôi sẽ cũng thượng tọa bàn về hai cái sai kia.” Thiên Bình lúc ấy vẫn bỏ đi. Thầy ta có vẻ đúng song không thật sự đúng. Tôi không nói là thầy ta không đúng, chỉ nói là thầy ta không đề lên được mà thôi. Tuy thế, song thầy ta vẫn còn có chút khí phách của một nạp tăng.

Sau này Thiên Bình trụ viện nói với đại chúng rằng, “ Ban đầu lúc tôi đi hành cước, bị gió nghiệp thổi đến tận chỗ của Tử Minh Trưởng Lão, Trưởng Lão nói, “ Sai!” hai lần liên tiếp, rồi lại giữ tôi lại qua mùa hè để bàn luận. Không phải lúc đó tôi mới sai, ngay lúc khởi hành đi phương nam tôi đã biết là sai rồi.” Lão này kể cũng được, có điều bị rơi vào hàng thứ bảy thứ tám, không có gì là nhằm nhò cả. Người thời này nghe thấy ta nói, “Ngay lúc khởi hành đi phương nam, tôi đã biết là sai rồi,” bèn ức đoán mà nói rằng, “Trước khi đi hành cước đã chẳng có nhiều đạo với Thiền gì, lúc đi hành cước thì lại bị các nơi lừa dối. Lúc chưa đi hành cước, gọi đất là trời gọi núi là sông; may mà chẳng có sự việc gì cả.” Nếu như các ông có thứ kiến thức thông tục như thế, tại sao không mua một cái mũ mà đội trong nhà chứ? Có dụng xứ gì đâu? Phật pháp đâu phải là đạo lý này. Nếu như luận về việc này, há lại có nhiều dâu dưa như thế chăng? Nếu như các ông nói, “Tôi hiểu, người khác không hiểu,” gánh một gánh Thiền đi quanh thiên hạ, lúc bị người đó mắt sáng khám phá, lại chẳng sử dụng được tí nào. Tuyết Đậu tụng đúng như thế.

TỤNG

Các Thiền gia,

Thích khinh bạc.

Tham đầy một bụng dùng chẳng được,

Đáng buốn đáng cười lão Thiên Bình.

Lại hận lúc đầu đã hành cước.

Sai, sai! 

Gió mát Tây Viện tan chẩy ngay.

Tuyết Đậu lại nói, “Nếu như có ông tăng bước ra nói, ‘Sai!’ Cái ‘sai” của Tuyết Đậu phải so sánh như thế nào với cái ‘sai’ của Thiên Bình.”

BÌNH: “Các Thiền gia, thích khinh bạc. Tham đầy một bụng dùng chẳng được.” Gã này hiểu thì có hiểu, chỉ có điều không sử dụng được. Thường đưa mắt lên trời cao rồi nói là mình hiểu Thiền bao nhiêu, đến khi bị họ nói lộ một chút thì lại chẳng sử dụng gì được cả. Ngũ Tổ nói, “Có một số người tham Thiền như thể trong bình lưu ly, không chuyển động được, không lay động được, song nếu đụng vào là vỡ ngay.” Nếu như muốn sống động thì cứ đi tham Thiền túi da, dù có ném từ trên núi cao xuống đi nữa cũng chẳng vỡ.” Cổ nhân nói, “Nếu như hiểu được ngay cả trước khi nói ra vẫn còn là bị niêm phong, dù cho có tinh thông được câu nói vẫn chưa tránh khỏi những kiến chấp điên khùng.”

“Đáng buồn đáng cười lão Thiên Bình, lại hận lúc đầu đã hành cước.’ Tuyết Đậu nói, đàng buồn vì thầy ta không giải thích được cho người khác, đáng cười là vì thầy ta biết cả một bụng Thiền mà không sử dụng được. “Sai, sai!” Hai cái sai này, có người bảo rằng thầy ta không nói tức là sai. Nhưng mà có gì là nhằm nhò đâu? Đâu có biết rằng hai cái sai này như thể đá lửa điện chớp, đó chính là nơi hành động của người hướng thượng, giống như dùng kiếm chém người, nắm ngay cổ họng người khác, lúc ấy mạng căng mới đứt đoạn. Nếu như các ông có thể đi được trên lưỡi kiếm này, thì các ông tha hồ tung hoành.Nếu như các ông hiểu được hai cái sai này các ông mới có thể thấy gió mát của Tây Viện thổi tan chảy. Tuyết Đậu sau khi thượng đường giảng công án này xong, ý muốn nói “sai”. Tôi thử hỏi các ông , cái “sai” của Tuyết Đậu phải so sánh như thế nào với cái sai của Thiên Bình? Tham Thiền ba mươi năm nữa đi!
Phần 10

TẮC THỨ CHÍN MƯƠI MỐT

TÊ GIÁC CỦA DIÊM QUAN

THÙY: Siêu tình ly kiến, cởi giây gỡ dính, đề khởi hướng thượng tông thừa, chống đỡ chính pháp nhãn tạng. Cần phải ứng đủ mười phương, rõ ràng tám hướng, đến thẳng cảnh giới như thế. Thử nói xem, còn có người cùng đắc cùng chứng cùng tử cùng sinh chăng? Thử nêu lên xem.

CỬ: Một hôm Diêm Quan gọi thị giả, “Đem cho tôi cái quạt sừng tê giác xem.” Thị giả nói, “ Quạt bị gẫy rồi.” Diêm Quan nói, “ Nếu như quạt gẫy rồi thì ông đem tê giác lại cho tôi đi.” Thị giả không trả lời được.

Đầu Tử nói, “ Không phải là tôi từ chối đem tới mà chỉ e rằng sừng trên đầu nó không toàn vẹn.” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Tôi muốn cặp sừng không toàn vẹn.”

Thạch Sương nói, “ Nếu như tôi đem nó lại cho hòa thượng thì tôi lại không có nữa.” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Con tê giác vẫn còn đó.”

Từ Phúc vẽ một vòng tròn rồi viết một chữ “tê” trong ấy. Tuyết Đậu niệm rằng, “ Vừa rồi đây tại sao không dắt nó tới?”

Bảo Phúc nói, “ Hòa thượng lớn tuổi rồi, đừng hỏi người khác nữa có hơn không?” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Tiếc thay mất công mà chẳng được gì cả.”

BÌNH: Một hôm Diêm Quan gọi thị giả, “Đem cái quạt sừng tê giác đến cho tôi xem.” Việc này tuy không thuộc nơi ngôn ngữ, song nếu như muốn thử cái ý khí bình sinh của một người lại cũng cứ cần phải mượn vào ngôn ngữhiển thị. Vào ngày cuối cùng tháng cuối cùng, nếu như các ông vẫn còn ra sức được làm chủ tình thế được, thì dù cho có vạn cảnh đi nữa các ông vẫn có thể dững dưng nhìn mà chẳng bị đã động, đây có thể được gọi là công dụng không công dụng, sức mạnh không sức mạnh.

Diêm Quan tức là Tề An Thiền Sư, lúc trước có một cái quạt làm bằng sừng tê giác. Lúc đó há Diêm Quan lại không biết rằng cái quạt đã bị gẫy rồi sao? Thầy ta vẫn cố tình hỏi thị giả, thị giả nói, “ Quạt bị gẫy rồi.” Nhìn xem cổ nhân suốt hăm bốn giờ một ngày lúc nào cũng ở trong ấy, luôn luôn tiếp xúc với nó. Diêm Quan nói, “ Nếu như quạt gẫy rồi thì ông đem tê giác lại cho tôi đi.” Thử nói xem, Diêm Quan mướn tê giác để làm gì? Thầy ta chỉ muốn thử thách người khác xem họ có hiểu ý chỉ của công án hay không mà thôi.

Đầu Tử nói, “ Không phải là tôi từ chối đem nó tới mà chỉ e rằng sừng trên đầu nó không toàn vẹn.” Tuyết Đậu nói, “ Tôi muốn cặp sừng không toàn vẹn.” Thầy ta cũng dùng cơ biến ra đối lại trong câu nói ấy.

Thạch Sương nói, “Nếu như tôi đem nó lại cho hòa thượng thì tôi lại không có nó nữa.” Tuyết Đậu nói, “ Con tê giác vẫn còn đó.”

Từ Phúc vẽ một vòng tròn rồi viết một chữ “tê” trong ấy, bởi vì thầy ta là người thừa tự của Ngưỡng Sơn, cho nên bình sinh rất thích dùng cảnh để tiếp thiên hạ. Tuyết Đậu nói, “ Vừa rồi đây tại sao không dắt nó tới?” Xỏ luôn cả lỗ mũi của Từ Phúc.

Bảo Phúc nói, “ Hòa thượng lớn tuổi rồi, đừng hỏi người khác nữa có hơn không?” Lời nói nói ra một cách hết sức ẩn mật ổn thỏa. Ba lời trên vốn dễ thấy, chỉ có lời này là có ý nghĩa thâm sâu. Tuyết Đậu cũng đã phả luôn cả nó. Sư núi tôi lúc ở nơi của Khánh Tàng Chủ đã hiểu được. Thầy ta nói, “ Hòa thượng tuổi lớn già cả, được đầu quên đuôi, vừa rồi tìm cây quạt bây giờ lại kiếm tê giác. Thật là khó mà chiều ỳ, cho nên Bảo Phúc mới nói, “ Hòa thượng đừng hỏi người khác nữa có hơn không.” Tuyết Đậu nói, “ Tiếc thay mất công mà chẳng được gì cả.”

Tất cả những lời này đề thuộc vào cách thức “ hạ ngữ” ( nhận xét). Các cổ nhân nhìn thấu sự việc này, tuy rằng mỗi người khác nhau, song mỗi khi nói ra là đều bách phát bách trùng, luôn luôn có con đường xuất thân, chẳng câu nào lạc mất huyết mạch ( của tông môn) cả. Người thời nay mà bị hỏi là chỉ biết lý luận so đo, cho nên tôi mới muốn thiên hạ phải nhai nghiến vấn đề này suốt hăm bốn tiếng đồng hồ một ngày, khiến cho mọi giọt nước đều thành một giọt nước đá, tầm cầu chỗ chứng ngộ. Xem Tuyết Đậu tụng thành một chuỗi rằng:

TỤNG

Chiếc quạt tê giác dùng từ lâu,

Hỏi đến té ra chẳng ai biết.

Gió mát vô hạn với cặp sừng,

Giống như mây mưa qua khó theo.

Tuyết Đậu lại nói , “ Nếu như các ông muốn gió mát trở lại cặp sừng mọc lại , tôi xin mời các Thiền khách mỗi người nói một chuyển ngữ. Quạt đã gẫy rồi tôi muốn các ông đem tê giác lại cho tôi. Lúc ấy có ông tăng bước ra nói, “ mời đại chúng vào cả tham Thiền đường đi.” Tuyết Đậu hét nói, “ Thả câu câu kình ngư lại bắt được nhái bén.” Rồi xuống khỏi tòa.

BÌNH: “ Chiếc quạt tê giác dùng từ lâu, hỏi đến té ra chẳng ai biết.” Ai cũng có một chiếc quạt sừng tê giác, suốt hăm bốn giờ một ngày đều được nó đắc lực, tại sao lúc hỏi đến lại chẳng ai biết? Thị giả, Đầu Tử cho đến Bảo Phúc chẳng một ai biết cả. Tuyết Đậu có biết không?

Há không nghe Vô Trước đến thăm Văn Thù, lúc họ đang uống trà, Văn Thù dơ chén pha lê lên hỏi, “ Phương nam có có cái này không?” Vô Trước nói, “ Không”. Văn Thù nói, “ Bình thường họ dùng gì để uống trà?” Vô Trước không nói gì được.Nếu như các ông hiểu được cốt yếu của công án này, các ông sẽ biết được rằng sừng tê giác có vô hạn gió mát, lại cũng thấy được cặp sừng lừng lững trên đầu tê giác.

Bốn lão hán này ăn nói như vầy giống nư mây sớm mưa chiều; một khi đã qua khó mà đuổi theo được. Tuyết Đậu lại nói, “ Nếu như các ông muốn gió mát trở lại cặp sừng mọc lại, tôi xin mời các Thiền khác mỗi người nói một chuyển ngữ. Quạt đã gẫy rồi tôi muốn các ông đem tê giác lại cho tôi.” Lúc ấy một Thiền khách bước ra nói, “ Mời đại chúng vào cả tham Thiền đường đi.” Ông tăng này đoạt mất quyền bính của người chủ. Tuy rằng ông ta nói được một cách hết sức là xít xao song lại chỉ mới nói được có tám phần mà thôi. Nếu như các ông muốn cả mười phần, thì cứ lật đổ giường Thiền cho ông ta. Thử nói xem, ông tăng này có hiểu tê giác hay không? Nếu như không hiểu, ông lại biết cách nói như thế. Nếu như ông ta hiểu, tại sao Tuyết Đậu lại không chịu chấp nhận ông ta? Tại sao Tuyết Đậu lại nói, “ Thả câu câu king ngư lại bắt được nhái bén?”

Thử nói xem, rốt cuộc là như thế nào? Các ông cử chỉ nên vô sự, thử niêm xuyết xem sao!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22254)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16000)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15014)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18926)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14430)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18611)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14401)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13561)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13540)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11805)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13220)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13642)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13919)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13241)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15013)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16148)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11076)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16438)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11883)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17578)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12864)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13690)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12839)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14843)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16369)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13119)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12071)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12750)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12877)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12756)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14151)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14093)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16449)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12370)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14371)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11293)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11014)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13181)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13879)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13147)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12992)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13483)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12709)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10224)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13954)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10210)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13688)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16249)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11945)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12957)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11626)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12652)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10778)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10972)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10926)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11864)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12737)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11045)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12604)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11301)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant