Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tắc thứ Chín Mươi Chín: Thập Thân Điều Ngự Của Túc Tông

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15760)
Tắc thứ Chín Mươi Chín: Thập Thân Điều Ngự Của Túc Tông

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 10

TẮC THỨ CHÍN MƯƠI CHÍN

THẬP THÂN ĐIỀU NGỰ CỦA TÚC TÔNG

 

THÙY: Rồng kêu sương nổi, cọp gầm gió sinh. Trong tướng xuất thế vàng ngọc chạm nhau; thông phương tác lược mũi tên đụng nhau. Thế giới không ẩn, xa gần hiển hiện, cổ kim biện rõ. Thử nói xem, đây là cảnh giới của ai? Thử nêu lên xem.

CỬ: Túc Tông Hoàng Đế hỏi Huệ Trung Quốc Sư, “Thập thân điều ngự là gì?” Quốc Sư nói, “Thí chủ bước trên đầu Tì Lô[4] mà đi”. Túc Tông nói, “Quả nhân không hiểu.” Quốc Sư nói, “Đừng nhận thanh tịnh Pháp thân của mình.”

BÌNH: Túc Tông Hoàng Đế lúc còn là Đông Cung (Thái Tử) đã tham học với Huệ Trung Quốc Sư rồi. Sau này lúc lên ngai vàng lại còn kính trọng Quốc Sư hơn nữa.Quốc Sư ra vào (cung) Túc Tông đều nghênh đón, đích thân mìnhcầm lộng che.

Một hôm hỏi Quốc Sư một câu hỏi, “Thập thân điều ngự là gì?” Quốc Sư nói, “Thí chủ bước trên đầu Tì Lô mà đi.” Quốc Sư bình sinh có sóng lưng cứng như sắt thép; song khi đến trước mặt hoàng đế thì lại mềm như đất bùn. Tuy rằng Quốc Sư trả lời một ccáh chi li, song vẫn có chỗ hay của nó. Quốc Sư nói, “Nếu như ngài muốn hiểu, lại nói, “Quả nhân không hiểu.” Quốc Sư sau đó lại hết sức quan tâm đi vào bụi cỏ, giải rõ thêm về câu nói đầu rằng, “Đừng nhận thanh tịnh Pháp Thân của mình.” Đó là cái mà mọi người đều có, cái viên mãn trong tất cả mọi người. Nhìn xem thầy ta một buông một nắm, tiếp kẻ địch từ tám hướng.

Há không nghe nói rằng làm bậc thầy phải biết tùy cơ mà giảng dạy? Xem gió mà căng buồm; nếu chỉ nắm giữ một góc, làm sao có thể uyển chuyển được? Xem lão Hoàng Bá rất là khéo tiếp thiên hạ. Lúc thầy ta gặp Lâm Tế, ba lần đánh cho Lâm Tế sáu mươi gậy đau điếng, do đó mà Lâm Tế mới hiểu. Song khi tiếp dẫn Tướng Quốc Bùi Hưu, sự việc lại rắc rối vô cùng. Hoàng Bá há không phải là một bậc thầy giỏi sao? Huệ Trung Quốc Sư dùng phương tiện thiện sảo để tiếp Túc Tông Hoàng Đế, bởi vì thầy ta có khả năng tiếp kẻ địch từ tám hướng. Thập thân điều ngự tức là mười thụ dụng thân. Ba thân Pháp (Dharmakàya), Báo (Samhogakàya), và Hóa (Nirmànakàya) tức là Pháp Thân. Tại sao vậy? Bởi vì Báo ThânHóa Thân không phải là chân Phật, mà cũng không phải là chủ thể thuyết Pháp. Lúc còn dựa trên Pháp Thân thì chỉ là một phiến hư ngưng minh linh tịch chiếu.

Lúc Thái Nguyên Phù thượng Tọa giảng Kinh Niết Bàn tại Quang Hiếu TựDương Châu có vị tăng du phương vốn là điển tòa của Giáp Sơn bị kẹt tuyết ở tự viện cho nên cùng vào nghe giảng. Lúc giảng đến tam nhân Phật tính tam đức Pháp thân, Phù Tượng Tọa đang nói rộng về Pháp Thân diệu lý, điển tòa hốt nhiên bật cười. Phù Thượng Tọa đưa mắt nhìn. Lúc giảng xong mới mời vị Thiền giả kia đến hỏi rằng, “ Chỗ hiểu biết của tôi hẹp hòi chỉ dựa vào theo văn mà giải nghĩa thôi. Vừa rồi lúc tôi đang giảng, thấy thượng nhân bật cười, hẳn là tôi phải có chỗ thiết xót, xin thượng nhân chỉ điểm cho.”

Điển toà nói, “Nếu như tòa chủ không hỏi, tôi đâu dám nói. Nay tòa chủ đã hỏi, tôi không thể không nói. Tôi quả thực cười là bởi vì tòa chủ không hiểu Pháp Thân.” Phù Thượng Tọa nói, “Tôi giải thích như thế, sai ở chỗ nào?” Điển tòa nói, “Xin tòa chủ giảng lại một lần nữa.” Phù Thượng Tọa nói, “Lý của Pháp Thân cũng giống như hư không, dọc cùng tam tế, ngang bằng mười phương, tràn đầy tam cực, bao quát cả hai nghi, tùy theo nhân duyêncảm ứng, không đâu không bao trùm.” Điển tòa nói, “Tôi không nói là điển tòa giảng không đúng, song tòa chủ chỉ biết lượng của Pháp Thân mà không thực sự biết Pháp Thân.” Thừ Thượng Tọa nói, “Nếu như thế thì Thiền giả giải thích cho tôi đi.” Điển toà nói, “Nếu tòa chủ muốn thì xin tạm ngưng giảng trong một tuần, chỉ ngồi tĩnh tọa trong phòng tịch lặng, thu tâm, nhiếp niệm, các duyên thiện ác một lúc buông bỏ cả, rồi tự chiêm nghiệm lấy.”

Phù Thượng Tọa làm y theo như thế. Từ bắt đầu đêm đến canh năm, lúc nghe tiếng trống canh, hốt nhiên khế ngộ, bèn đến gõ cửa vị Thiền gia kia. Điển tòa hỏi, “Ai đó?” Phù Thượng Tọa nói, “Tôi.” Điển tòa mắng rằng, “Tôi muốn ông phù trì đại giáo, thay Phật thuyết Pháp, nửa đêm tại sao lại say khướt mà nằm bên vệ đường như thế?” Phù Thượng Tọa nói, “Từ trước đến giờ giảng kinh tôi chỉ biết béo cái mũi của cha mẹ sinh ra, từ rày về sau không còn dám như vậy nữa.”

Nhìn xem con người kỳ đặc này! Há chỉ đi nhận cái chiêu diêu linh linh, rồi đâm ra lu mờ luống cuống? Cần phải đả phá nghiệp thức, đến mức không còn gì để đắc; như vậy cũng vẫn chỉ là mới đạt được một nửa.Cổ nhân nói, “Không khởi một chút tu học tâm, thường tự tại trongvô tướng quang.” Chỉ cần biết thường tịch diệt chứ đừng nhận thanh sắc; chỉ biết linh tri chứ đừng nhận vọng tưởng. Cho nên mới có câu nói, “Giả sử như bánh xe sắt chuyển trên đầu các ông, nếu có định huệ viên minh, cuối cùng sẽ không bao giờ mất cả.”

Bồ Đề Đạt Ma hỏi Nhị Tổ, “Ông đứng trong tuyết chặt cánh tay, chẳng hay vì sự việc gì vậy?” Nhị Tổ nói, “Tâm con chưa an, xin Thầy an tâm cho con.” Đạt Ma nói, “Đem tâm ông đến đây ta an cho.” Nhị Tổ nói, “Tìm tâm mãi mà không ra.” Đạt Ma nói, “Ta đã an tâm cho ông rồi đó.” Nhị Tổ hốt nhiên lãnh ngộ. Thử nói xem, đúng vào lúc ấy Pháp Thân ở chỗ nào? Trường Sa nói, “Những kẻ học đạo không biết Chân, chỉ vì như xưa nhận thức thần. Gốc của sinh tử vô lượng kiếp, kẻ ngu gọi là bổn lai nhân.”

Người bây giờ chỉ nhận cái chiêu chiêu linh linh này trợn mày trợn mắt, dở đủ trò, nhưng mà có nhằm nhò gì đâu? Như Quốc Sư nói, “Đừng nhận thanh tịnh Pháp Thân của mình,” còn như Pháp Thân của chính mình, thì dù trong mộng đi nữa các ông vẫn chưa thấy được. Làm gì mà nói được đừng nhận? Các nhà giáo tông coi thanh tịnh Pháp Thân là cực tắc, tại sao lại không cho người khác nhận? Há không nghe nói, “nếu như các ông nhận thì vẫn sai như trước.” Ôi, thà đập cho một gậy còn hơn. Ai hiểu được điều này mới có thể hiểu được lời Quốc Sư nói rằng, “Đừng có nhận thanh tịnh Pháp Thân của mình.” Tuyết Đậu không thích cái lòng tha thiết của Quốc Sư, song song bùn lại có gai, biết phải làm sao bây giờ?

Há không biết rằng Động Sơn có ba con đường để tiếp thiên hạ sao? Đó gọi là “Đường Huyền” “Đường Chim” và “Đưa Tay ra.” Những kẻ sơ cơ mới học đạo nên cố đi theo ba con đường này. Có ông tăng hỏi, “Thầy thường dạy người học đạo đi theo ‘Đường Chim’. Dám hỏi đường chim là gì vậy? Động Sơn nói, “Chỉ cứ đi một cách vô tư là được.” Ông tăng nói, “Nếu như đệ tử chỉ đi theo ‘Đường Chim’, đó há có phải là bổn lại diện mục của đệ tử không?” Động Sơn nói, “Xà lê tại sao lại điên đảo như thế?” Ông tăng nói, “Đệ tử điên đảo ở chỗ nào đâu?” Động Sơn nói, “Nếu không điên đảo, tại sao lại nhận tớ làm chủ?” Ông tăng hỏi, “Bổn lai diện mục là gì?” Động Sơn nói, “Không đi đường chim.”

Cần phải thấy đến mức độ này mới có phần nào tương ưng. Dù cho các ông quét sạch tất cả, dẹp tất cả các dấu tích, giữ im lặng, song trong tông môn của nạp tăng thì đó chỉ là kiến giải của sa di với trẻ con mà thôi. Cần phải quay đầu lại với bụi trần để mà hưng đại dụng mới được. Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG

Thầy của một nước chỉ cưỡng danh,

Chỉ mình Nam Dương lừng tiếng thơm.

Đại Đường phò được chân thiên tử,

Từng đi trên đỉnh đầu Tì Lô.

Trùy sắt đập nát hoàng kim cốt,

Giữa trời và đất là vật gì?

Ba ngàn sát hải đêm lặng lẽ,

Chẳng biết ai vào hang rồng xanh?

BÌNH: “Thầy của một nước chỉ cưỡng danh, chỉ mình Nam Dương lừng tiếng thơm.” Tụng này cũng như tán thán một hình ảnh. Há không nghe nói rằng chí nhân vô danh sao? Gọi là Quốc Sư chẳng qua cũng chỉ là gượng ép mà gán cái tên. Đạo của Quốc Sư vốn không thể so sánh. Thầy ta khéo tiếp người bằng cách này.

Chỉ mình Nam Dương được coi là bậc chuyên gia. “Đại Đường phò được chân thiên tử, từng đi trên đỉnh đầu Tì Lô.” Nếu như các ông có đủ mắt và đầu óc của nạp tăng, các ông phải đi trên đầu Tì Lô mới có thể thấy được thập thân điều ngự này. Phật cũng còn được gọi là điều ngự, đó là một trong thập danh hiệu của Phật. Một thân hóa làm mười thân, mười thân hóa làm một trăm thân, cho đến trăm triệu thân, song tổng thể chỉ là một thân. Câu tụng này để giải thích, câutụng sau tụng lời Quốc Sư nói, “Đừng nhận thanh tịnh Pháp Thân của mình.” Tụng một cách đến nỗi nước đổ lên cũng không ướt. Thật khó mà có thể giải thích được.

Trùy sắt đập nát hoàng kim cốt.” Đây tụng câu nói, “Đừng nhận thanh tịnh Pháp Thân của mình.” Tuyết Đậu hết mực tán thán Huệ Trung, hoàng kim cốt chỉ một búa là đập tan. “Giữa trời và đất là vật gì?” Cần phải tự tại thánh thoát không còn một vật gì có thể đắc thì mới là bổn địa phong quang. “Ba ngàn sát hải đêm lặng lẽ.” Tam thiên đại thiên thế giớivô biên cõi, trong mỗi cõi lại có một biển. Lúc đêm sâu lặng lẽ, trời đất trong ngần, thử nói xem đó là gì vậy? Kỵ nhất là đừng hiểu cái kiểu nhắm mắt nhắm mũi. Nếu hiểu theo kiểu đó các ông sẽ bị rơi vào biển độc.

“Chẳng biết ai vào hang rồng xanh?” Dưới chân ra có chân vào, thử nói xem là ai vậy? Tất cả mọi người bị Tuyết Đậu xỏ mũi cùng một lúc luôn.
Phần 10

TẮC THỨ CHÍN MƯƠI MỐT

TÊ GIÁC CỦA DIÊM QUAN

THÙY: Siêu tình ly kiến, cởi giây gỡ dính, đề khởi hướng thượng tông thừa, chống đỡ chính pháp nhãn tạng. Cần phải ứng đủ mười phương, rõ ràng tám hướng, đến thẳng cảnh giới như thế. Thử nói xem, còn có người cùng đắc cùng chứng cùng tử cùng sinh chăng? Thử nêu lên xem.

CỬ: Một hôm Diêm Quan gọi thị giả, “Đem cho tôi cái quạt sừng tê giác xem.” Thị giả nói, “ Quạt bị gẫy rồi.” Diêm Quan nói, “ Nếu như quạt gẫy rồi thì ông đem tê giác lại cho tôi đi.” Thị giả không trả lời được.

Đầu Tử nói, “ Không phải là tôi từ chối đem tới mà chỉ e rằng sừng trên đầu nó không toàn vẹn.” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Tôi muốn cặp sừng không toàn vẹn.”

Thạch Sương nói, “ Nếu như tôi đem nó lại cho hòa thượng thì tôi lại không có nữa.” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Con tê giác vẫn còn đó.”

Từ Phúc vẽ một vòng tròn rồi viết một chữ “tê” trong ấy. Tuyết Đậu niệm rằng, “ Vừa rồi đây tại sao không dắt nó tới?”

Bảo Phúc nói, “ Hòa thượng lớn tuổi rồi, đừng hỏi người khác nữa có hơn không?” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Tiếc thay mất công mà chẳng được gì cả.”

BÌNH: Một hôm Diêm Quan gọi thị giả, “Đem cái quạt sừng tê giác đến cho tôi xem.” Việc này tuy không thuộc nơi ngôn ngữ, song nếu như muốn thử cái ý khí bình sinh của một người lại cũng cứ cần phải mượn vào ngôn ngữhiển thị. Vào ngày cuối cùng tháng cuối cùng, nếu như các ông vẫn còn ra sức được làm chủ tình thế được, thì dù cho có vạn cảnh đi nữa các ông vẫn có thể dững dưng nhìn mà chẳng bị đã động, đây có thể được gọi là công dụng không công dụng, sức mạnh không sức mạnh.

Diêm Quan tức là Tề An Thiền Sư, lúc trước có một cái quạt làm bằng sừng tê giác. Lúc đó há Diêm Quan lại không biết rằng cái quạt đã bị gẫy rồi sao? Thầy ta vẫn cố tình hỏi thị giả, thị giả nói, “ Quạt bị gẫy rồi.” Nhìn xem cổ nhân suốt hăm bốn giờ một ngày lúc nào cũng ở trong ấy, luôn luôn tiếp xúc với nó. Diêm Quan nói, “ Nếu như quạt gẫy rồi thì ông đem tê giác lại cho tôi đi.” Thử nói xem, Diêm Quan mướn tê giác để làm gì? Thầy ta chỉ muốn thử thách người khác xem họ có hiểu ý chỉ của công án hay không mà thôi.

Đầu Tử nói, “ Không phải là tôi từ chối đem nó tới mà chỉ e rằng sừng trên đầu nó không toàn vẹn.” Tuyết Đậu nói, “ Tôi muốn cặp sừng không toàn vẹn.” Thầy ta cũng dùng cơ biến ra đối lại trong câu nói ấy.

Thạch Sương nói, “Nếu như tôi đem nó lại cho hòa thượng thì tôi lại không có nó nữa.” Tuyết Đậu nói, “ Con tê giác vẫn còn đó.”

Từ Phúc vẽ một vòng tròn rồi viết một chữ “tê” trong ấy, bởi vì thầy ta là người thừa tự của Ngưỡng Sơn, cho nên bình sinh rất thích dùng cảnh để tiếp thiên hạ. Tuyết Đậu nói, “ Vừa rồi đây tại sao không dắt nó tới?” Xỏ luôn cả lỗ mũi của Từ Phúc.

Bảo Phúc nói, “ Hòa thượng lớn tuổi rồi, đừng hỏi người khác nữa có hơn không?” Lời nói nói ra một cách hết sức ẩn mật ổn thỏa. Ba lời trên vốn dễ thấy, chỉ có lời này là có ý nghĩa thâm sâu. Tuyết Đậu cũng đã phả luôn cả nó. Sư núi tôi lúc ở nơi của Khánh Tàng Chủ đã hiểu được. Thầy ta nói, “ Hòa thượng tuổi lớn già cả, được đầu quên đuôi, vừa rồi tìm cây quạt bây giờ lại kiếm tê giác. Thật là khó mà chiều ỳ, cho nên Bảo Phúc mới nói, “ Hòa thượng đừng hỏi người khác nữa có hơn không.” Tuyết Đậu nói, “ Tiếc thay mất công mà chẳng được gì cả.”

Tất cả những lời này đề thuộc vào cách thức “ hạ ngữ” ( nhận xét). Các cổ nhân nhìn thấu sự việc này, tuy rằng mỗi người khác nhau, song mỗi khi nói ra là đều bách phát bách trùng, luôn luôn có con đường xuất thân, chẳng câu nào lạc mất huyết mạch ( của tông môn) cả. Người thời nay mà bị hỏi là chỉ biết lý luận so đo, cho nên tôi mới muốn thiên hạ phải nhai nghiến vấn đề này suốt hăm bốn tiếng đồng hồ một ngày, khiến cho mọi giọt nước đều thành một giọt nước đá, tầm cầu chỗ chứng ngộ. Xem Tuyết Đậu tụng thành một chuỗi rằng:

TỤNG

Chiếc quạt tê giác dùng từ lâu,

Hỏi đến té ra chẳng ai biết.

Gió mát vô hạn với cặp sừng,

Giống như mây mưa qua khó theo.

Tuyết Đậu lại nói , “ Nếu như các ông muốn gió mát trở lại cặp sừng mọc lại , tôi xin mời các Thiền khách mỗi người nói một chuyển ngữ. Quạt đã gẫy rồi tôi muốn các ông đem tê giác lại cho tôi. Lúc ấy có ông tăng bước ra nói, “ mời đại chúng vào cả tham Thiền đường đi.” Tuyết Đậu hét nói, “ Thả câu câu kình ngư lại bắt được nhái bén.” Rồi xuống khỏi tòa.

BÌNH: “ Chiếc quạt tê giác dùng từ lâu, hỏi đến té ra chẳng ai biết.” Ai cũng có một chiếc quạt sừng tê giác, suốt hăm bốn giờ một ngày đều được nó đắc lực, tại sao lúc hỏi đến lại chẳng ai biết? Thị giả, Đầu Tử cho đến Bảo Phúc chẳng một ai biết cả. Tuyết Đậu có biết không?

Há không nghe Vô Trước đến thăm Văn Thù, lúc họ đang uống trà, Văn Thù dơ chén pha lê lên hỏi, “ Phương nam có có cái này không?” Vô Trước nói, “ Không”. Văn Thù nói, “ Bình thường họ dùng gì để uống trà?” Vô Trước không nói gì được.Nếu như các ông hiểu được cốt yếu của công án này, các ông sẽ biết được rằng sừng tê giác có vô hạn gió mát, lại cũng thấy được cặp sừng lừng lững trên đầu tê giác.

Bốn lão hán này ăn nói như vầy giống nư mây sớm mưa chiều; một khi đã qua khó mà đuổi theo được. Tuyết Đậu lại nói, “ Nếu như các ông muốn gió mát trở lại cặp sừng mọc lại, tôi xin mời các Thiền khác mỗi người nói một chuyển ngữ. Quạt đã gẫy rồi tôi muốn các ông đem tê giác lại cho tôi.” Lúc ấy một Thiền khách bước ra nói, “ Mời đại chúng vào cả tham Thiền đường đi.” Ông tăng này đoạt mất quyền bính của người chủ. Tuy rằng ông ta nói được một cách hết sức là xít xao song lại chỉ mới nói được có tám phần mà thôi. Nếu như các ông muốn cả mười phần, thì cứ lật đổ giường Thiền cho ông ta. Thử nói xem, ông tăng này có hiểu tê giác hay không? Nếu như không hiểu, ông lại biết cách nói như thế. Nếu như ông ta hiểu, tại sao Tuyết Đậu lại không chịu chấp nhận ông ta? Tại sao Tuyết Đậu lại nói, “ Thả câu câu king ngư lại bắt được nhái bén?”

Thử nói xem, rốt cuộc là như thế nào? Các ông cử chỉ nên vô sự, thử niêm xuyết xem sao!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22293)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16020)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15028)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18953)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14446)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18630)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14428)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13585)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13548)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11818)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13256)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13660)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13935)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13248)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15025)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16161)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11083)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16452)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11904)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17596)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12875)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13713)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12865)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14856)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16384)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13125)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12087)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12772)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12913)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12786)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14174)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14109)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16474)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12377)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14384)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11310)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11034)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13191)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13890)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13160)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13001)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13504)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12734)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10233)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13966)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10224)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13702)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16266)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11966)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12973)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11655)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12678)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10798)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10998)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10943)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11899)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12763)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11067)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12614)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11324)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant