Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tắc thứ Chín Mươi Chín: Thập Thân Điều Ngự Của Túc Tông

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15732)
Tắc thứ Chín Mươi Chín: Thập Thân Điều Ngự Của Túc Tông

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 10

TẮC THỨ CHÍN MƯƠI CHÍN

THẬP THÂN ĐIỀU NGỰ CỦA TÚC TÔNG

 

THÙY: Rồng kêu sương nổi, cọp gầm gió sinh. Trong tướng xuất thế vàng ngọc chạm nhau; thông phương tác lược mũi tên đụng nhau. Thế giới không ẩn, xa gần hiển hiện, cổ kim biện rõ. Thử nói xem, đây là cảnh giới của ai? Thử nêu lên xem.

CỬ: Túc Tông Hoàng Đế hỏi Huệ Trung Quốc Sư, “Thập thân điều ngự là gì?” Quốc Sư nói, “Thí chủ bước trên đầu Tì Lô[4] mà đi”. Túc Tông nói, “Quả nhân không hiểu.” Quốc Sư nói, “Đừng nhận thanh tịnh Pháp thân của mình.”

BÌNH: Túc Tông Hoàng Đế lúc còn là Đông Cung (Thái Tử) đã tham học với Huệ Trung Quốc Sư rồi. Sau này lúc lên ngai vàng lại còn kính trọng Quốc Sư hơn nữa.Quốc Sư ra vào (cung) Túc Tông đều nghênh đón, đích thân mìnhcầm lộng che.

Một hôm hỏi Quốc Sư một câu hỏi, “Thập thân điều ngự là gì?” Quốc Sư nói, “Thí chủ bước trên đầu Tì Lô mà đi.” Quốc Sư bình sinh có sóng lưng cứng như sắt thép; song khi đến trước mặt hoàng đế thì lại mềm như đất bùn. Tuy rằng Quốc Sư trả lời một ccáh chi li, song vẫn có chỗ hay của nó. Quốc Sư nói, “Nếu như ngài muốn hiểu, lại nói, “Quả nhân không hiểu.” Quốc Sư sau đó lại hết sức quan tâm đi vào bụi cỏ, giải rõ thêm về câu nói đầu rằng, “Đừng nhận thanh tịnh Pháp Thân của mình.” Đó là cái mà mọi người đều có, cái viên mãn trong tất cả mọi người. Nhìn xem thầy ta một buông một nắm, tiếp kẻ địch từ tám hướng.

Há không nghe nói rằng làm bậc thầy phải biết tùy cơ mà giảng dạy? Xem gió mà căng buồm; nếu chỉ nắm giữ một góc, làm sao có thể uyển chuyển được? Xem lão Hoàng Bá rất là khéo tiếp thiên hạ. Lúc thầy ta gặp Lâm Tế, ba lần đánh cho Lâm Tế sáu mươi gậy đau điếng, do đó mà Lâm Tế mới hiểu. Song khi tiếp dẫn Tướng Quốc Bùi Hưu, sự việc lại rắc rối vô cùng. Hoàng Bá há không phải là một bậc thầy giỏi sao? Huệ Trung Quốc Sư dùng phương tiện thiện sảo để tiếp Túc Tông Hoàng Đế, bởi vì thầy ta có khả năng tiếp kẻ địch từ tám hướng. Thập thân điều ngự tức là mười thụ dụng thân. Ba thân Pháp (Dharmakàya), Báo (Samhogakàya), và Hóa (Nirmànakàya) tức là Pháp Thân. Tại sao vậy? Bởi vì Báo ThânHóa Thân không phải là chân Phật, mà cũng không phải là chủ thể thuyết Pháp. Lúc còn dựa trên Pháp Thân thì chỉ là một phiến hư ngưng minh linh tịch chiếu.

Lúc Thái Nguyên Phù thượng Tọa giảng Kinh Niết Bàn tại Quang Hiếu TựDương Châu có vị tăng du phương vốn là điển tòa của Giáp Sơn bị kẹt tuyết ở tự viện cho nên cùng vào nghe giảng. Lúc giảng đến tam nhân Phật tính tam đức Pháp thân, Phù Tượng Tọa đang nói rộng về Pháp Thân diệu lý, điển tòa hốt nhiên bật cười. Phù Thượng Tọa đưa mắt nhìn. Lúc giảng xong mới mời vị Thiền giả kia đến hỏi rằng, “ Chỗ hiểu biết của tôi hẹp hòi chỉ dựa vào theo văn mà giải nghĩa thôi. Vừa rồi lúc tôi đang giảng, thấy thượng nhân bật cười, hẳn là tôi phải có chỗ thiết xót, xin thượng nhân chỉ điểm cho.”

Điển toà nói, “Nếu như tòa chủ không hỏi, tôi đâu dám nói. Nay tòa chủ đã hỏi, tôi không thể không nói. Tôi quả thực cười là bởi vì tòa chủ không hiểu Pháp Thân.” Phù Thượng Tọa nói, “Tôi giải thích như thế, sai ở chỗ nào?” Điển tòa nói, “Xin tòa chủ giảng lại một lần nữa.” Phù Thượng Tọa nói, “Lý của Pháp Thân cũng giống như hư không, dọc cùng tam tế, ngang bằng mười phương, tràn đầy tam cực, bao quát cả hai nghi, tùy theo nhân duyêncảm ứng, không đâu không bao trùm.” Điển tòa nói, “Tôi không nói là điển tòa giảng không đúng, song tòa chủ chỉ biết lượng của Pháp Thân mà không thực sự biết Pháp Thân.” Thừ Thượng Tọa nói, “Nếu như thế thì Thiền giả giải thích cho tôi đi.” Điển toà nói, “Nếu tòa chủ muốn thì xin tạm ngưng giảng trong một tuần, chỉ ngồi tĩnh tọa trong phòng tịch lặng, thu tâm, nhiếp niệm, các duyên thiện ác một lúc buông bỏ cả, rồi tự chiêm nghiệm lấy.”

Phù Thượng Tọa làm y theo như thế. Từ bắt đầu đêm đến canh năm, lúc nghe tiếng trống canh, hốt nhiên khế ngộ, bèn đến gõ cửa vị Thiền gia kia. Điển tòa hỏi, “Ai đó?” Phù Thượng Tọa nói, “Tôi.” Điển tòa mắng rằng, “Tôi muốn ông phù trì đại giáo, thay Phật thuyết Pháp, nửa đêm tại sao lại say khướt mà nằm bên vệ đường như thế?” Phù Thượng Tọa nói, “Từ trước đến giờ giảng kinh tôi chỉ biết béo cái mũi của cha mẹ sinh ra, từ rày về sau không còn dám như vậy nữa.”

Nhìn xem con người kỳ đặc này! Há chỉ đi nhận cái chiêu diêu linh linh, rồi đâm ra lu mờ luống cuống? Cần phải đả phá nghiệp thức, đến mức không còn gì để đắc; như vậy cũng vẫn chỉ là mới đạt được một nửa.Cổ nhân nói, “Không khởi một chút tu học tâm, thường tự tại trongvô tướng quang.” Chỉ cần biết thường tịch diệt chứ đừng nhận thanh sắc; chỉ biết linh tri chứ đừng nhận vọng tưởng. Cho nên mới có câu nói, “Giả sử như bánh xe sắt chuyển trên đầu các ông, nếu có định huệ viên minh, cuối cùng sẽ không bao giờ mất cả.”

Bồ Đề Đạt Ma hỏi Nhị Tổ, “Ông đứng trong tuyết chặt cánh tay, chẳng hay vì sự việc gì vậy?” Nhị Tổ nói, “Tâm con chưa an, xin Thầy an tâm cho con.” Đạt Ma nói, “Đem tâm ông đến đây ta an cho.” Nhị Tổ nói, “Tìm tâm mãi mà không ra.” Đạt Ma nói, “Ta đã an tâm cho ông rồi đó.” Nhị Tổ hốt nhiên lãnh ngộ. Thử nói xem, đúng vào lúc ấy Pháp Thân ở chỗ nào? Trường Sa nói, “Những kẻ học đạo không biết Chân, chỉ vì như xưa nhận thức thần. Gốc của sinh tử vô lượng kiếp, kẻ ngu gọi là bổn lai nhân.”

Người bây giờ chỉ nhận cái chiêu chiêu linh linh này trợn mày trợn mắt, dở đủ trò, nhưng mà có nhằm nhò gì đâu? Như Quốc Sư nói, “Đừng nhận thanh tịnh Pháp Thân của mình,” còn như Pháp Thân của chính mình, thì dù trong mộng đi nữa các ông vẫn chưa thấy được. Làm gì mà nói được đừng nhận? Các nhà giáo tông coi thanh tịnh Pháp Thân là cực tắc, tại sao lại không cho người khác nhận? Há không nghe nói, “nếu như các ông nhận thì vẫn sai như trước.” Ôi, thà đập cho một gậy còn hơn. Ai hiểu được điều này mới có thể hiểu được lời Quốc Sư nói rằng, “Đừng có nhận thanh tịnh Pháp Thân của mình.” Tuyết Đậu không thích cái lòng tha thiết của Quốc Sư, song song bùn lại có gai, biết phải làm sao bây giờ?

Há không biết rằng Động Sơn có ba con đường để tiếp thiên hạ sao? Đó gọi là “Đường Huyền” “Đường Chim” và “Đưa Tay ra.” Những kẻ sơ cơ mới học đạo nên cố đi theo ba con đường này. Có ông tăng hỏi, “Thầy thường dạy người học đạo đi theo ‘Đường Chim’. Dám hỏi đường chim là gì vậy? Động Sơn nói, “Chỉ cứ đi một cách vô tư là được.” Ông tăng nói, “Nếu như đệ tử chỉ đi theo ‘Đường Chim’, đó há có phải là bổn lại diện mục của đệ tử không?” Động Sơn nói, “Xà lê tại sao lại điên đảo như thế?” Ông tăng nói, “Đệ tử điên đảo ở chỗ nào đâu?” Động Sơn nói, “Nếu không điên đảo, tại sao lại nhận tớ làm chủ?” Ông tăng hỏi, “Bổn lai diện mục là gì?” Động Sơn nói, “Không đi đường chim.”

Cần phải thấy đến mức độ này mới có phần nào tương ưng. Dù cho các ông quét sạch tất cả, dẹp tất cả các dấu tích, giữ im lặng, song trong tông môn của nạp tăng thì đó chỉ là kiến giải của sa di với trẻ con mà thôi. Cần phải quay đầu lại với bụi trần để mà hưng đại dụng mới được. Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG

Thầy của một nước chỉ cưỡng danh,

Chỉ mình Nam Dương lừng tiếng thơm.

Đại Đường phò được chân thiên tử,

Từng đi trên đỉnh đầu Tì Lô.

Trùy sắt đập nát hoàng kim cốt,

Giữa trời và đất là vật gì?

Ba ngàn sát hải đêm lặng lẽ,

Chẳng biết ai vào hang rồng xanh?

BÌNH: “Thầy của một nước chỉ cưỡng danh, chỉ mình Nam Dương lừng tiếng thơm.” Tụng này cũng như tán thán một hình ảnh. Há không nghe nói rằng chí nhân vô danh sao? Gọi là Quốc Sư chẳng qua cũng chỉ là gượng ép mà gán cái tên. Đạo của Quốc Sư vốn không thể so sánh. Thầy ta khéo tiếp người bằng cách này.

Chỉ mình Nam Dương được coi là bậc chuyên gia. “Đại Đường phò được chân thiên tử, từng đi trên đỉnh đầu Tì Lô.” Nếu như các ông có đủ mắt và đầu óc của nạp tăng, các ông phải đi trên đầu Tì Lô mới có thể thấy được thập thân điều ngự này. Phật cũng còn được gọi là điều ngự, đó là một trong thập danh hiệu của Phật. Một thân hóa làm mười thân, mười thân hóa làm một trăm thân, cho đến trăm triệu thân, song tổng thể chỉ là một thân. Câu tụng này để giải thích, câutụng sau tụng lời Quốc Sư nói, “Đừng nhận thanh tịnh Pháp Thân của mình.” Tụng một cách đến nỗi nước đổ lên cũng không ướt. Thật khó mà có thể giải thích được.

Trùy sắt đập nát hoàng kim cốt.” Đây tụng câu nói, “Đừng nhận thanh tịnh Pháp Thân của mình.” Tuyết Đậu hết mực tán thán Huệ Trung, hoàng kim cốt chỉ một búa là đập tan. “Giữa trời và đất là vật gì?” Cần phải tự tại thánh thoát không còn một vật gì có thể đắc thì mới là bổn địa phong quang. “Ba ngàn sát hải đêm lặng lẽ.” Tam thiên đại thiên thế giớivô biên cõi, trong mỗi cõi lại có một biển. Lúc đêm sâu lặng lẽ, trời đất trong ngần, thử nói xem đó là gì vậy? Kỵ nhất là đừng hiểu cái kiểu nhắm mắt nhắm mũi. Nếu hiểu theo kiểu đó các ông sẽ bị rơi vào biển độc.

“Chẳng biết ai vào hang rồng xanh?” Dưới chân ra có chân vào, thử nói xem là ai vậy? Tất cả mọi người bị Tuyết Đậu xỏ mũi cùng một lúc luôn.
Phần 10

TẮC THỨ CHÍN MƯƠI MỐT

TÊ GIÁC CỦA DIÊM QUAN

THÙY: Siêu tình ly kiến, cởi giây gỡ dính, đề khởi hướng thượng tông thừa, chống đỡ chính pháp nhãn tạng. Cần phải ứng đủ mười phương, rõ ràng tám hướng, đến thẳng cảnh giới như thế. Thử nói xem, còn có người cùng đắc cùng chứng cùng tử cùng sinh chăng? Thử nêu lên xem.

CỬ: Một hôm Diêm Quan gọi thị giả, “Đem cho tôi cái quạt sừng tê giác xem.” Thị giả nói, “ Quạt bị gẫy rồi.” Diêm Quan nói, “ Nếu như quạt gẫy rồi thì ông đem tê giác lại cho tôi đi.” Thị giả không trả lời được.

Đầu Tử nói, “ Không phải là tôi từ chối đem tới mà chỉ e rằng sừng trên đầu nó không toàn vẹn.” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Tôi muốn cặp sừng không toàn vẹn.”

Thạch Sương nói, “ Nếu như tôi đem nó lại cho hòa thượng thì tôi lại không có nữa.” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Con tê giác vẫn còn đó.”

Từ Phúc vẽ một vòng tròn rồi viết một chữ “tê” trong ấy. Tuyết Đậu niệm rằng, “ Vừa rồi đây tại sao không dắt nó tới?”

Bảo Phúc nói, “ Hòa thượng lớn tuổi rồi, đừng hỏi người khác nữa có hơn không?” Tuyết Đậu niệm rằng, “ Tiếc thay mất công mà chẳng được gì cả.”

BÌNH: Một hôm Diêm Quan gọi thị giả, “Đem cái quạt sừng tê giác đến cho tôi xem.” Việc này tuy không thuộc nơi ngôn ngữ, song nếu như muốn thử cái ý khí bình sinh của một người lại cũng cứ cần phải mượn vào ngôn ngữhiển thị. Vào ngày cuối cùng tháng cuối cùng, nếu như các ông vẫn còn ra sức được làm chủ tình thế được, thì dù cho có vạn cảnh đi nữa các ông vẫn có thể dững dưng nhìn mà chẳng bị đã động, đây có thể được gọi là công dụng không công dụng, sức mạnh không sức mạnh.

Diêm Quan tức là Tề An Thiền Sư, lúc trước có một cái quạt làm bằng sừng tê giác. Lúc đó há Diêm Quan lại không biết rằng cái quạt đã bị gẫy rồi sao? Thầy ta vẫn cố tình hỏi thị giả, thị giả nói, “ Quạt bị gẫy rồi.” Nhìn xem cổ nhân suốt hăm bốn giờ một ngày lúc nào cũng ở trong ấy, luôn luôn tiếp xúc với nó. Diêm Quan nói, “ Nếu như quạt gẫy rồi thì ông đem tê giác lại cho tôi đi.” Thử nói xem, Diêm Quan mướn tê giác để làm gì? Thầy ta chỉ muốn thử thách người khác xem họ có hiểu ý chỉ của công án hay không mà thôi.

Đầu Tử nói, “ Không phải là tôi từ chối đem nó tới mà chỉ e rằng sừng trên đầu nó không toàn vẹn.” Tuyết Đậu nói, “ Tôi muốn cặp sừng không toàn vẹn.” Thầy ta cũng dùng cơ biến ra đối lại trong câu nói ấy.

Thạch Sương nói, “Nếu như tôi đem nó lại cho hòa thượng thì tôi lại không có nó nữa.” Tuyết Đậu nói, “ Con tê giác vẫn còn đó.”

Từ Phúc vẽ một vòng tròn rồi viết một chữ “tê” trong ấy, bởi vì thầy ta là người thừa tự của Ngưỡng Sơn, cho nên bình sinh rất thích dùng cảnh để tiếp thiên hạ. Tuyết Đậu nói, “ Vừa rồi đây tại sao không dắt nó tới?” Xỏ luôn cả lỗ mũi của Từ Phúc.

Bảo Phúc nói, “ Hòa thượng lớn tuổi rồi, đừng hỏi người khác nữa có hơn không?” Lời nói nói ra một cách hết sức ẩn mật ổn thỏa. Ba lời trên vốn dễ thấy, chỉ có lời này là có ý nghĩa thâm sâu. Tuyết Đậu cũng đã phả luôn cả nó. Sư núi tôi lúc ở nơi của Khánh Tàng Chủ đã hiểu được. Thầy ta nói, “ Hòa thượng tuổi lớn già cả, được đầu quên đuôi, vừa rồi tìm cây quạt bây giờ lại kiếm tê giác. Thật là khó mà chiều ỳ, cho nên Bảo Phúc mới nói, “ Hòa thượng đừng hỏi người khác nữa có hơn không.” Tuyết Đậu nói, “ Tiếc thay mất công mà chẳng được gì cả.”

Tất cả những lời này đề thuộc vào cách thức “ hạ ngữ” ( nhận xét). Các cổ nhân nhìn thấu sự việc này, tuy rằng mỗi người khác nhau, song mỗi khi nói ra là đều bách phát bách trùng, luôn luôn có con đường xuất thân, chẳng câu nào lạc mất huyết mạch ( của tông môn) cả. Người thời nay mà bị hỏi là chỉ biết lý luận so đo, cho nên tôi mới muốn thiên hạ phải nhai nghiến vấn đề này suốt hăm bốn tiếng đồng hồ một ngày, khiến cho mọi giọt nước đều thành một giọt nước đá, tầm cầu chỗ chứng ngộ. Xem Tuyết Đậu tụng thành một chuỗi rằng:

TỤNG

Chiếc quạt tê giác dùng từ lâu,

Hỏi đến té ra chẳng ai biết.

Gió mát vô hạn với cặp sừng,

Giống như mây mưa qua khó theo.

Tuyết Đậu lại nói , “ Nếu như các ông muốn gió mát trở lại cặp sừng mọc lại , tôi xin mời các Thiền khách mỗi người nói một chuyển ngữ. Quạt đã gẫy rồi tôi muốn các ông đem tê giác lại cho tôi. Lúc ấy có ông tăng bước ra nói, “ mời đại chúng vào cả tham Thiền đường đi.” Tuyết Đậu hét nói, “ Thả câu câu kình ngư lại bắt được nhái bén.” Rồi xuống khỏi tòa.

BÌNH: “ Chiếc quạt tê giác dùng từ lâu, hỏi đến té ra chẳng ai biết.” Ai cũng có một chiếc quạt sừng tê giác, suốt hăm bốn giờ một ngày đều được nó đắc lực, tại sao lúc hỏi đến lại chẳng ai biết? Thị giả, Đầu Tử cho đến Bảo Phúc chẳng một ai biết cả. Tuyết Đậu có biết không?

Há không nghe Vô Trước đến thăm Văn Thù, lúc họ đang uống trà, Văn Thù dơ chén pha lê lên hỏi, “ Phương nam có có cái này không?” Vô Trước nói, “ Không”. Văn Thù nói, “ Bình thường họ dùng gì để uống trà?” Vô Trước không nói gì được.Nếu như các ông hiểu được cốt yếu của công án này, các ông sẽ biết được rằng sừng tê giác có vô hạn gió mát, lại cũng thấy được cặp sừng lừng lững trên đầu tê giác.

Bốn lão hán này ăn nói như vầy giống nư mây sớm mưa chiều; một khi đã qua khó mà đuổi theo được. Tuyết Đậu lại nói, “ Nếu như các ông muốn gió mát trở lại cặp sừng mọc lại, tôi xin mời các Thiền khác mỗi người nói một chuyển ngữ. Quạt đã gẫy rồi tôi muốn các ông đem tê giác lại cho tôi.” Lúc ấy một Thiền khách bước ra nói, “ Mời đại chúng vào cả tham Thiền đường đi.” Ông tăng này đoạt mất quyền bính của người chủ. Tuy rằng ông ta nói được một cách hết sức là xít xao song lại chỉ mới nói được có tám phần mà thôi. Nếu như các ông muốn cả mười phần, thì cứ lật đổ giường Thiền cho ông ta. Thử nói xem, ông tăng này có hiểu tê giác hay không? Nếu như không hiểu, ông lại biết cách nói như thế. Nếu như ông ta hiểu, tại sao Tuyết Đậu lại không chịu chấp nhận ông ta? Tại sao Tuyết Đậu lại nói, “ Thả câu câu king ngư lại bắt được nhái bén?”

Thử nói xem, rốt cuộc là như thế nào? Các ông cử chỉ nên vô sự, thử niêm xuyết xem sao!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12470)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10342)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12321)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11621)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28775)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12024)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12982)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11428)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12344)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17426)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52983)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35459)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21359)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10664)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19210)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12385)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25994)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13296)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14345)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16063)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13711)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16816)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17536)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13105)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12508)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11590)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11579)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14480)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20411)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18937)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19520)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18603)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12166)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12286)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13830)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14981)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15022)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13964)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15502)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11376)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17138)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14941)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20164)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14594)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13808)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11680)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15028)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12973)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22836)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14536)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11630)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13144)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16849)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18317)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11925)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11483)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15823)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12857)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18882)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18387)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant