Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngày thứ ba

25 Tháng Tư 201100:00(Xem: 13026)
Ngày thứ ba

ẤN QUANG ĐẠI SƯ KHAI THỊ
tại pháp hội Hộ Quốc Tức Tai tại Thượng Hải (1936)
(Nguyên tác: Ấn Quang Ðại Sư Hộ Quốc Tức Tai Pháp Ngữ)
(Liên Hương dịch theo bản in của Hoa Tạng Tịnh Tông Học Hội, Ðài Bắc)

Ấn Quang Ðại Sư Pháp Ngữ
(giảng tại pháp hội Hộ Quốc Tức Tai tại Thượng Hải - 1936)


Ngày thứ ba:

Trần thuật nguyên lý nhân quả và nêu sự thực làm chứng

Hai ngày hôm trước tôi đã trình bày sơ lược về đạo lý nhân quảphương pháp tức tai hộ quốc; hôm nay vốn chẳng cần phải luận về nhân quả nữa; nhưng tôi thấy vẫn còn có điểm chẳng thể chẳng trình bày rõ, nên tôi định sẽ giảng sâu hơn ít nữa, lại thuyết minh về nguyên lý nhân quả và nêu sự thực làm chứng, ngõ hầu đại chúng biết đến sẽ tỉnh ngộ và kinh sợ. 

Hiện tại, thế nhân chẳng rõ nguyên lý nhân quả, cho đó là chuyện bàn xằng, tà thuyết, lúc nào cũng tính chiếm tiện nghi, chẳng cam bề chịu lép, nào biết đâu tiện nghi chính là chịu lép, chịu lép hóa ra lại là tiện nghi. Như cha mẹ nay thường nuông chiều con cái, chẳng quản giáo nghiêm ngặt đến nỗi tạo thành thói quen ham tiền tài, thích tiện nghi. Cứ cho là có vậy mới gìn giữ được gia sản, chẳng đến nỗi bị tổn thất; nào hay kết quả trái ngược, vừa di hoạn chung thân lại còn gián tiếp ảnh hưởng vô hạn đến xã hội, quốc gia

Nay nêu lên một chuyện để làm ví dụ: Triệu Lương Tướng ở Ðại Châu đời Tùy, gia tư cự vạn, có hai đứa con. Ðứa lớn tên Mạnh, đứa nhỏ tên Doanh. Doanh mạnh mẽ, Mạnh yếu đuối. Lúc người cha sắp mất, phân gia sản làm hai, Mạnh được nhiều hơn. Sau khi Triệu Lương Tướng mất, Doanh chiếm sạch tài sản của anh, chỉ chừa lại cho anh một căn nhà và mảnh vườn. Mạnh phải đi làm thuê để tự nuôi thân. Chẳng mấy chốc, Triệu Doanh chết, sanh làm con của Mạnh, mang tên là Hoàn. Sau đấy, Mạnh cũng chết, đầu thai vào nhà Doanh, làm cháu nội của Doanh, mang tên là Tiên. Ðến lớn, nhà Mạnh càng nghèo, nhà Doanh càng giàu. Triệu Hoàn phải làm tôi tớ cho Triệu Tiên để sống. Thiên hạ bảo: “Thiên đạo bất bình, đã giàu càng giàu thêm”. 

Một ngày kia, Hoàn nghe bà mẹ góa bảo: “Chú Doanh của mày cướp đoạt gia sản của mày đến nỗi đời mày nghèo mạt, nay phải làm tôi tớ cho nhà nó, chẳng biết nhục sao?” Bởi thế, Hoàn oán hận, toan giết Triệu Tiên. Năm Khai Hoàng thứ nhất (600 TL), Hoàn theo Tiên đi triều bái Ngũ Ðài, vào đến chốn hang thẳm ở phía Ðông cả mấy mươi dặm, sâu hun hút không một bóng người. Hoàn rút dao bảo Tiên: “Ông nội mày là em trai bố tao. Ông mày đoạt gia sản của tao. Ðến đời tao nghèo túng phải làm đầy tớ cho mày. Mày nỡ lòng làm thế, nay tao giết mày đây!” Tiên liền cắm đầu chạy, Hoàn đuổi theo chạy vào rừng, thấy có am tranh liền bước vào. Có một vị lão Tăng bảo Hoàn: “Ông định làm gì thế?” Hoàn đáp: “Tôi đuổi theo kẻ oán đối!” Vị lão Tăng cười lớn: “Ông khoan làm thế, tôi sẽ giúp ông tự biết”, rồi trao cho dược vật bảo pha vào trà mà uống. Hoàn uống xong như mộng mới tỉnh, nhớ hết việc cũ, thẹn thùng đau đớn

Lão Tăng bảo: “Doanh chính là tiền thân của Hoàn, trước kia cướp đoạt của anh chính là tự bỏ tài sản của mình. Tiên là Mạnh thác sanh trở lại để hưởng lấy sản nghiệp kiếp trướcý nguyện của cha vẫn còn vậy!” Hai người bèn bỏ nhà làm Tăng tu đạo, sau đều mất tại Di Ðà Am. Sự việc này còn thấy chép trong Thanh Lương Sơn Chí. Nhân quả báo ứng hiển hiện rõ ràng, như tiếng vang ứng theo tiếng, như bóng theo hình, chẳng sai mảy may. Thế mà những kẻ tham hận sao chẳng tỉnh ngộ vậy? 

Lại như hiện tại còn lưu truyền chuyện cái trống da người ở Ngũ Ðài Sơn cũng là chuyện nhân quả báo thật rành rẽ đáng sợ vậy. Tôi xin thử thuật lại nguyên do. Ðời Ðường, tại mặt sau ngọn Bắc Ðài, chùa Hắc Sơnnhà sư tên Pháp Ái làm giám tự hai mươi năm, lấy của Chiêu Ðề Tăng tậu nhiều ruộng ở Nam Nguyên, để lại cho đồ đệ là Minh Hối. Pháp Ái chết liền sanh làm trâu ở nhà họ X. tận lực một mình cày ruộng. Ba mươi năm sau, trâu vừa già vừa bệnh, chủ trại muốn đem trâu đổi cho người lấy dầu. 

Ðêm ấy, Minh Hối mộng thấy người thầy đã chết của mình khóc bảo: “Ta dùng Tăng vật để tậu ruộng cho ngươi. Nay đang làm trâu vừa già vừa còm cõi. Xin hãy lột da ta bịt trống, viết tên tuổi của ta trên đó. Mỗi khi lễ tụng liền đánh trống thì nỗi khổ của ta mới có ngày thoát khỏi. Nếu không, dù gò Nam Nguyên có biến thành biển xanh, ta vẫn chưa thể thoát khổ nổi!” Nói xong, phủ phục cả thân mình xuống. 

Minh Hối tỉnh giấc, chỉ mới nửa đêm liền thỉnh chuông nhóm chúng, tường thuật tự sự. Sáng hôm sau, chủ trại báo con trâu già đã húc đầu vào cây mà chết. Minh Hối y theo lời trước, lột da trâu bịt trống, viết tên thầy lên trên, bán hết ruộng ở Nam Nguyên. Ðược bao nhiêu tiền đem cúng trai tăng cho tăng chúng ở Ngũ Ðài hết. Minh Hối lại bán sạch cả y bát, vì thầy mình lễ sám. Sau đem trống ấy gởi vào viện Văn Thù ở Ngũ Ðài. Lâu ngày, trống hư, chủ chùa đem trống khác thế vào. Thế gian ngoa truyền là trống bịt bằng da người. Sự tích này cũng thấy ghi trong Thanh Lương Sơn Chí. 

Nói tóm lại, nhân quả rành rành, không ai trốn khỏi. Hai người con họ Triệu do túc thế có gieo căn lành nên gặp được cao tăng, cuối cùng thành đạo. Còn như kẻ phàm tục sao lại tự cậy, chẳng dốc lòng tin nhân quả, tự mình lầm, làm người khác lầm, tự hại, hại người? Người đời nay chỉ thấy chuyện trước mắt, chẳng đoái hoài đời sau, thích chiếm tiện nghi, chẳng thích bị thua thiệt; con cái mắt thấy tai nghe, tập riết thành thói. Phong tục xã hội cũng do đó ngày càng hiểm ác, tranh đoạt nổi lên, đại loạn hưng khởi, giết người đầy thành, ngập đồng mà mắt chẳng nháy, tâm chẳng áy náy đều là do đó mà ra cả. Ðã thế, sát nhân là tàn nhẫn, ác độc, nhưng chẳng coi là đáng buồn, đáng xót, ngược lại còn vênh váo khoe công, còn được kẻ khác khen ngợi nữa. Thậm chí có kẻ giết cả cha mẹ, họ hàng, còn tự cho là “đại nghĩa diệt thân!” 

Ôi! Họa biến đến thế, thiên lý tuyệt, nhân đạo diệt, chẳng riêng đạo đức táng vong mà còn bị kiếp nạn không ngơi nữa! Vì thế, hiện tại muốn cứu hộ đất nước phải bắt đầu từ căn bản. Căn bản là gì? Ðích xác là tin vào nhân quả. Nếu đã thật sự hiểu rõnhân quả lại còn có thể dốc lòng tin, tận lực thực hành thì thế đạo, nhân tâm tự có thể vãn hồi. Tôi cho rằng tất cả triết học, tôn giáo trong thế gian không gì tinh áo, dễ thực hành bằng Phật giáo cả. 

Hiện tại, thế nhân sở dĩ chẳng tin nhân quả, đa phần là vì chịu ảnh hưởng của Tống Nho. Những nhà Lý học thời Tống như Trình Minh Ðạo, Trình Y Xuyên, Chu Hối Am v.v… do xem kinh Ðại Thừa nhà Phật, chỉ lãnh hội đôi chút ý nghĩa “toàn sự tức lý”; lại chỉ thân cận một hai bậc tri thức trong Tông Môn, hiểu lóm rằng bất cứ pháp nào cũng chẳng ngoài ý chỉ Nhất Tâm, chứ thực sự chưa hề duyệt trọn các kinh luận cùng tham học với khắp các bậc tri thức chư tông, trộm lấy ý nghĩa của kinh Phật để tự khoe mẽ, dùng đó phát huy sự uyên áo của Nho giáo. Bọn họ lại sợ người đời sau cũng xem kinh Phật sẽ thấy ngay sự kém cỏi của mình bèn rắp tâm báng Phật

Nhân chẳng thể báng bổ những chỗ tinh diệu, họ liền nhắm vào mặt Sự mà bài bác. Họ bảo đức Phật dạy sự-lý tam thế nhân quả, lục đạo luân hồi chỉ nhằm để phỉnh phờ hạng ngu phu, ngu phụ phụng hành giáo pháp của Ngài, chứ thật sự chẳng có những điều ấy. Họ còn bảo: Sau khi con người chết đi, thân đã mục nát thì thần thức cũng phiêu tán; dù có [muốn] băm, chặt, xay, giã cũng không còn có gì để làm được! Thần thức đã tan thì còn ai để thọ sanh? Do những thuyết sai lầm ấy, họ đã mở tung đầu mối phóng túng, không kiêng sợ gì cả. 

[Họ lý luận] chẳng khuyến khích điều thiện, chẳng trừng phạt điều ác vì “trời tức là Lý” vậy, chứ nào có một vị vua thật sự cầm cân nảy mực đâu! Họ cho rằng thần và hồn là hai lương năng của Khí, như thể sấm động là do hai khí Âm, Dương va chạm nhau nổ thành tiếng. Họ coi những vấn đề Thực Lý, Thực Sự là chuyện không đàm (bàn luận suông), chuyên lấy việc chánh tâm thành ý làm gốc để trị quốc, trị dân; chẳng hề biết chánh tâm thành ý chính là do “trí tri cách vật” mà ra. Họ bảo “trí tri” là suy xét tri thức của mình đến cùng cực, “cách vật” là hiểu cùng tận cái lý của mọi sự vật trong thiên hạ; nào hay “vật” chính là tư dục trong tâm mình. Do có tư dục nên tự tâm bị chướng ngăn; bởi thế, tâm vốn sẵn đủ chơn tri nhưng không cách nào hiển hiện được. “Cách trừ” (hiểu biếttrừ khử) được tư dục thì chơn tri sẵn có sẽ tự hiển hiện. Hễ chơn tri đã hiển thì tâm sẽ chánh, ý sẽ thành! 

Chánh tâm thành ý thì dù ngu phu, ngu phụ một chữ chẳng biết cũng vẫn làm nổi. Còn nếu đúng như họ (các nhà Tống Nho) lý luận thì việc suy xét đến cùng cực tri thức của mình, hiểu tận cùng cái lý của mọi sự vật trong thiên hạ dẫu có là bậc thánh nhân cũng chẳng dễ gì làm nổi! Vì do lầm lạc một điểm này đến nỗi căn bản trị thế bị mất sạch. Họ lại dùng thuyết không nhân quả, luân hồi toan khuyên người chánh tâm thành ý. Nếu đã không có nhân quả, một phen chết đi là vĩnh viễn mất hết, dù thiện hay ác cũng đều chết cả; còn ai bận tâm đến cái tiếng hão nữa mà chánh tâm thành ý cơ chứ? 

Hơn nữa, các nhà Lý học cho rằng: “Nếu có làm điều gì để làm lành thì đó chính là ác”. Lý lẽ này đúng là phá hoại thiện pháp thế gian. Vì sao thế? Ông Cừ Bá Ngọc năm 20 tuổi, thấy mười chín năm trước đều sai trái. Ðến năm mươi tuổi, thấy bốn mươi chín năm trước đều sai trái, muốn bớt lỗi nhưng chưa làm được. Như thế thì ông Cừ có làm điều gì hay là không làm điều gì? Khổng Tử không đức nào chẳng tu, không môn học nào mà chẳng giảng, không nghe đạo nghĩa nào mà chẳng làm theo, không điều chẳng tốt nào mà chẳng thay đổi, nhưng vẫn lo âu. Ðến năm bảy mươi tuổi, Ngài vẫn mong trời cho sống thêm mấy năm ngõ hầu học Dịch để khỏi mắc lỗi lớn. Như vậy thì ngài có làm điều gì hay không làm điều gì hết vậy? 

Chỉ từ sau thời Trình, Chu, nhà Nho đều chẳng dám bàn đến nhân quả vì hễ bàn đến là bị mọi người công kích, cho rằng không phải thuần Nho, cho là xúc phạm tiên hiền. Bởi vậy, kẻ hiểu biết phàm tục, kiến thức kém cỏi liền hùa giọng báng Phật; người kiến thức cao minh lén lút xem kinh Phật để mong tự hiểu biết thêm, nhưng miệng vẫn sốt sắng bài bác Phật pháp, ngõ hầu sau này được dự vào chân Hiền Từ trong làng xóm hay chức Tư Bổn trong Văn Miếu!

Khi đó, trong thâm tâm của Trình, Chu bất quá chỉ mong hưng long Nho Giáo, chẳng bận tâm đến Phật giáo sẽ còn hay mất! Họ nào hay đến ngày nay, chất độc tiềm tàng “phá diệt nhân quả, luân hồi” đột nhiên bộc phát ào ạt thành ác quả phi thánh, phi kinh, diệt lương hảo, diệt nhân luân, thú tánh, thú hạnh, vô thân, vô sỉ, tặc nhân, tặc nghĩa, họa quốc, họa dân, chẳng đáng đau buồn ư? 

Hiện tại chiến sự ở vùng Tuy Viễn rất khẩn cấp, tai họa cực thảm, những chiến sĩ trung dũng và đồng bào thân ái của chúng ta hoặc là máu thịt vương vãi tung tóe, táng thân, tổn mạng, hoặc là nhà tan cửa nát, trôi giạt, bơ vơ, không cơm, không áo, đói khát bức bách. Nói, nghĩ đến điều này, tim gan tan nát. Sáng nay, pháp sư Viên Anh kể cho tôi nghe chuyện này, bảo tôi khuyên đại chúng phát tâm cứu tế, góp gió thành bão, chẳng quản ít nhiều. Có áo cho áo, cớ tiền cho tiền, tùy duyên, tùy lực, công đức vô lượng, chắc chắn hưởng thiện quả

Phải biết là giúp người tức là giúp mình, cứu người tức là cứu mình. Nhân quả vằng vặc, chẳng sai sót mảy may. Nếu chính mình gặp nạn, không có ai giúp, nhưng nếu có thể xưng niệm thánh hiệu thì nhất định sẽ được Phật, Bồ Tát thầm gia hộ, bảo vệ. Tôi là một ông sư nghèo, hoàn toàn chẳng cất chứa thứ gì, hễ tại gia đệ tử có biếu tặng cái gì, tôi đều dùng để ấn loát kinh sách hết. Nay tôi xin quyên ra một ngàn đồng để xướng xuất cứu viện vùng Tuy Viễn. Chỉ có giúp người mắc nạn thì mới có thể dứt trừ được tai nạn cho mình. 

Hiện tại, phần lớn các bà đua nhau xa hoa, nghe nói một bình nước hoa trị giá từ ba, bốn chục bạc đến hai, ba trăm bạc. Sao bằng đem số tiền phung phí đó dùng để cứu trợ Tuy Viễn? Lại còn có hạng người chuyên ưa tích tụ của cải, lúc sống đã chẳng dám dùng, chết đi còn mong chôn theo xuống đất, ngõ hầu được con cái hậu táng, hoặc lưu truyền cho con cháu dùng, nào hay đâu hiện tại có nạn đào mồ, những mong tích chứa lại biến thành đại họa cho tương lai. Chẳng hạn như ở Thiểm Tây hiện đang có cả một tổ chức đào mộ chuyên thực hiện hành vi đó. Làm con người nỡ nào vì chữ Hiếu lại khiến cho mớ xương khô phơi tênh hênh cho chim, thú no dạ! Sao chẳng đem khoản tiền lớn lao đó dùng để cứu tế người dân bị nạn thì kẻ sống lẫn người chết đều được lợi. Như lại có người nghèo túng, tuy có chí nguyện làm thế, nhưng sức chẳng kham nổi thì hãy niệm Phật cho nhiều, thay họ hồi hướng, không những dứt tai nạn cho người còn dứt được tai nạn cho mình. Việc này ai cũng làm được. 

Tôi nghe lúc chiến cuộc xảy ra tại đất Hỗ, cháu của cư sĩ Tào Thương Châu vâng lời cha từ đất Hỗ xuống Tô Châu đón ba ông chú và các chú về Hỗ. Ông chú và các chú chẳng muốn đi. Cháu Tào bèn lấy châu báu của vợ giắt vào lưng, ngồi thuyền nhỏ về Hỗ. Chợt có kẻ cướp đến, anh ta nhanh chóng trốn vào gần bờ, vội vàng lội xuống nước, vàng ngọc giắt theo trị giá cả hai, ba vạn đều đem cho hết chỉ để đổi áo với người khác, tự xưng mình là học trò nghèo, làm thầy giáo dạy vỡ lòng cho trẻ, may mà thoát nạn. Nếu bọn đại đạo biết được, không biết còn phải tốn mấy vạn để chuộc thân nữa. Ðấy có phải là tiền tài gieo họa cho người hay không? 

Người ta nay chỉ tham phần tiện nghi trước mắt chẳng buông được, luôn bị tiền tài làm khốn khổ, những trường hợp như vậy rất nhiều, chẳng thể thuật đủ! Khi xưa, có một vị cư sĩ nọ hỏi tôi phương cách vãn hồi kiếp vận, tôi bảo: “Việc này rất dễ! Hiểu rõnhân quả rồi tận lực mà hành. Phát được tín tâm ắt có thiện quả. Vả tâm tư ngụy đã tiêu, trong tâm quang minh chánh đại thì tai nạn nào cũng tiêu tan như băng tuyết mà thôi!” 

Trong cơn loạn lạc ở Hồng Dương, ông Mộc Thương Viên Cung Hoằng người tỉnh Giang Tây bị bọn phỉ bắt được, trói vào cây cột ở khách sảnh, khóa chặt cửa lại, chờ đúng lúc sẽ giết. Ông Viên tự nghĩ phải chết, thầm niệm thánh hiệu Quán Thế Âm, hồi lâu ngủ quên đi, tỉnh dậy thấy thân mình nằm ngoài đồng, ngẩng đầu lên trông thấy vẫn còn sớm liền trốn thoát. Ðây là chuyện xác thực. 

Do vậy, tôi rất mong đại chúng đại phát tín tâm, nương vào đức của cha trời, mẹ đất, giữ lòng nhân coi mọi người là đồng bào của mình, dùng lòng nhân đối xử với loài vật hệt như con người. Phàm đối với hết thảy những gì trong vòng trời đất đều thương xót, nuôi dưỡng, bảo vệ, xem như chính mình. Lại còn đem lẽ nhân quả báo ứng, niệm Phật cầu sanh Tây Phương để chỉ bảo, khuyến hóa. Nếu như tất cả mọi người đều làm được như vậy thì nước chẳng cần giữ mà tự giữ vững, tai nạn chẳng mong dứt cũng tự dứt vậy! 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12496)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10382)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12346)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11642)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28807)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12051)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13010)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11444)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12378)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17444)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53047)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35489)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21396)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10678)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19240)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12406)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26046)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13319)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14381)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16088)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13730)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16840)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17585)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13130)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12532)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11609)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11617)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14510)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20485)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18994)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19565)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18653)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12185)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12314)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13860)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15030)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15037)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13995)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15515)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11404)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17194)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14981)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20196)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14616)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13840)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11709)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15063)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12998)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22882)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14556)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11651)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13170)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16885)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18343)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11940)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11501)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15851)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12884)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18908)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18422)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant