Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ngày thứ năm

25 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12303)
Ngày thứ năm

ẤN QUANG ĐẠI SƯ KHAI THỊ
tại pháp hội Hộ Quốc Tức Tai tại Thượng Hải (1936)
(Nguyên tác: Ấn Quang Ðại Sư Hộ Quốc Tức Tai Pháp Ngữ)
(Liên Hương dịch theo bản in của Hoa Tạng Tịnh Tông Học Hội, Ðài Bắc)

Ấn Quang Ðại Sư Pháp Ngữ
(giảng tại pháp hội Hộ Quốc Tức Tai tại Thượng Hải - 1936)


Ngày thứ năm:

Giải thích sơ lược về giáo nghĩa Lục Tức của tông Thiên Thai, kiêm giảng về việc ăn chay, phóng sanh

Pháp môn Tịnh Ðộ lợi khắp ba căn, thâu tóm lợi căn lẫn độn căn, chí viên, chí đốn, đúng là pháp môn duy nhất vô thượng trong thời này. Nhưng con người hiện tại, có kẻ tự cao, tự đại bảo: “Chúng sanh tức là Phật thì ta chính là Phật, sao lại phải niệm Phật?”, kẻ thì lại cho rằng: “Ta đã là phàm phu khổ não, lo gấp thoát sanh tử làm gì, chỉ cầu kiếp sau chẳng mất thân người là được rồi!” Hai hạng người này đều chẳng hiểu rõ nhân quả vậy. Bởi thế, hôm nay tôi lại giảng về nhân quả

Các vị phải biết câu: “Chúng sanh tức là Phật” chỉ cho cái nhân chân thậtPhật tánh sẵn có đủ. Nếu chẳng tu diệu hạnh Niệm Phật thì Phật tánh không cách nào hiển hiện, làm sao giải thoát sanh tử, thành tựu thật quả Phật đạo được? Ví như gương báu đóng bụi, quang minh chẳng hiện, chứ thật chẳng mất mảy may. Nếu chịu ra sức lau chùi, mài giũa thì lại chiếu soi hết thảy. Còn như lời lẽ: “Ta là phàm phu khổ não, chẳng thể vãng sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử, cho đến thành Phật” thì lại chính là lời lẽ của kẻ nghiệp chướng sâu nặng, cam bề đọa lạc

Nay người đời mải lo bon chen, tranh chấp, chẳng hề đoái hoài chuyện sanh tử, chẳng biết là bao nhiêu. Nếu họ có thể dụng công tu hành niệm Phật khó nhọc như thế thì lo gì chẳng được vãng sanh Tây Phương, thượng chứng Phật quả! Bởi lẽ, Phật vốn chỉ là một chúng sanh tu trì, chứng đắc Phật quả mà thôi. 

Trong cuốn Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ, Thiên Thai Trí Giả Ðại Sư đời Tùy đã lập ra giáo nghĩa Lục Tức Phật để đối trị gốc bệnh cam bề đọa lạc và bệnh tự tôn, tự đại sai lầm. Giáo thuyết ấy rất tinh xác, kẻ học Phật chẳng thể không biết đến. 

“Lục tức Phật” là: một là lý tức Phật, hai là danh tự tức Phật, ba là quán hạnh tức Phật, bốn là tương tự tức Phật, năm là phần chứng tức Phật, sáu là cứu cánh tức Phật. “Lục”: minh thị thứ lớp sâu cạn, “tức”: chỉ rõ ngay nơi thể chính là Phật. Ví như trẻ sơ sanh hình thể chẳng khác gì cha mẹ, nhưng sức lực khác biệt rất xa. Bởi thế, chẳng thể bảo đứa bé con ấy chẳng phải là người, nhưng cũng chẳng thể vội bảo nó gánh vác chuyện của người đã trưởng thành được. Nếu biết rõ “tuy sáu mà thường tức” thì chẳng sẽ chẳng lui sụt, khiếp nhược. Nếu hiểu “tuy tức mà thường sáu” sẽ chẳng sanh lòng tăng thượng mạn, từ đó, nỗ lực tu trì, sẽ từ phàm phu mà viên chứng Phật quả, do “lý tức Phật” mà thành “cứu cánh tức Phật” vậy. 

a. “Lý tức Phật” là hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh. Tuy trái phản Chánh Giác, xuôi theo trần lao, luân hồi Tam Ðồ, Lục Ðạo, nhưng Phật tánh công đức vẫn tự đầy đủ, cho nên gọi là “lý tức Phật”, coi lý thể của tâm tức là Phật vậy. Ông Vô Cơ Tử làm bài tụng rằng: 

Ðộng, tịnh lý toàn thị 

Hành, tàng sự tận phi, 

Minh minh tùy vật khứ, 

Yểu yểu bất tri quy 

(Ðộng, tịnh vốn toàn lý, 

Hành, tàng chẳng trúng gì, 

Tối tăm theo đuổi vật, 

Mờ mịt chẳng biết về) 

Ðấy là vì hết thảy chúng sanh tuy chưa nghe Phật pháp, chẳng biết tu trì, nhưng nhất niệm tâm thể vẫn hoàn toàn giống như Phật. Vì thế mới bảo là: “Ðộng, tịnh vốn toàn lý”. Do mê lầm tự tâm, tạo các sự nghiệp nên mới bảo “Hành, tàng chẳng trúng gì” (Hành là hoạt động, tàng là ở yên), vì mọi việc làm đều chẳng xứng với Phật tánh. Quanh năm, suốt tháng, tối tăm, mờ mịt ruổi theo vật dục, phiền não vọng tưởng, từ sống đến chết chẳng hề biết phản chiếu hồi quang, nên bảo là: “Tối tăm theo đuổi vật, mờ mịt chẳng biết về”. 

b. “Danh tự tức Phật” là do nghe từ thiện tri thức, hoặc từ kinh điển mà biết rằng tâm vốn sẵn đủ, tịch chiếu viên dung, Phật tánh bất sanh, bất diệt. Về phương diện danh tự, thông đạt, hiểu rõ, biết hết thảy Phật pháp đều là Phật pháp, hết thảy chúng sanh đều có thể thành Phật. Ðó chính là: nghe danh tự Phật tánh liền hiểu rõ, thông đạt Phật pháp. Kệ tụng rằng: 

Phương thính vô sanh khúc, 

Thỉ văn bất tử ca, 

Kim tri đương thể thị 

Phiên hận tự ta đà. 

(Vừa lắng khúc vô sanh

Thoảng nghe bài bất diệt

Liền biết ngay đương thể

Tiếc đã trót lần khân)

Ý nói: Từ trước đến nay chỉ biết sanh tử luân hồi không lúc nào kết thúc; nay mới biết Phật tánh chơn thường, bất sanh, bất diệt, đã biết đương thể chính là nhân chân chánh để thành Phật liền gấp gáp tu trì, chỉ hận từ trước đến nay mình bỏ uổng quang âm đến nỗi đến hiện giờ vẫn chưa thể sớm chứng Thật Quả được! 

c. “Quán hạnh tức Phật” là y giáo tu Quán, tức là địa vị ngoại phàm Ngũ Phẩm trong Viên Giáo. Ngũ Phẩm là: 

1. Tùy Hỷ Phẩm: nghe pháp Thật Tướng, tín giải, tùy hỷ

2. Ðộc Tụng Phẩm: đọc tụng kinh Pháp Hoa và các kinh điển Ðại Thừa để hỗ trợ quán hạnh, hiểu biết

3. Giảng Thuyết Phẩm: Tự nói những điều mình tự chứng hiểu (nội giải) để chỉ dạy, dắt dẫn làm lợi cho tha nhân

4. Kiêm Hành Lục Ðộ Phẩm: Kiêm tu Lục Ðộ để hỗ trợ quán tâm

5. Chánh Hành Lục Ðộ Phẩm: Chánh hành Lục Ðộ, tự mình hành, dạy người khác hành, đầy đủ cả Sự lẫn Lý. Quán Hạnh càng thêm thù thắng

Kệ tụng rằng:

Niệm niệm chiếu thường lý 

Tâm tâm tức huyễn trần 

Biến quán chư pháp tánh 

Vô giả diệc vô chân. 

(Niệm niệm chiếu thường lý, 

Tâm tâm bặt huyễn trần 

Quán khắp các pháp tánh

Nào còn giả cùng chân)

Ðã viên ngộ Phật tánh, y giáo tu Quán để đối trị phiền não tập khí nên bảo là: “Niệm niệm chiếu thường lý, tâm tâm bặt huyễn trần”. Hiểu rõ một sắc, một hương không thứ gì chẳng phải là Trung Ðạo; hết thảy các pháp không pháp nào chẳng phải là Phật pháp. Hết thảy chúng sanh đều sẽ thành Phật cho nên nói: “Quán khắp các pháp tánh, nào còn giả cùng chân”. 

c. “Tương tự tức Phật” là tương tự giải ngộ, khai phát, tức là địa vị Nội Phàm thuộc Thập Tín trong Viên Giáo. Sơ Tín đoạn Kiến Hoặc, Thất Tín đoạn Tư Hoặc; Bát, Cửu, Thập, Tín đoạn Trần Sa Hoặc. Kệ tụng rằng: 

Tứ Trụ tuy tiên thoát, 

Lục trần vị tận không 

Nhãn trung do hữu ế 

Không lý kiến hoa hồng 

(Trước đã thoát Tứ Trụ

Nhưng lục trần chửa không, 

Mắt vẫn còn màng mộng 

Thấy hoa đốm trên không) 

Tứ Trụ là: 

1. Kiến Nhất Thiết Trụ Ðịa chính là Kiến Hoặc trong Tam Giới

2. Dục Ái Trụ Ðịa chính là Tư Hoặc trong Dục Giới

3. Sắc Ái Trụ Ðịa tức là Tư Hoặc trong Sắc Giới

4. Hữu Ái Trụ Ðịa tức là Tư Hoặc trong Vô Sắc Giới

Sơ Tín đoạn Kiến Hoặc, Thất Tín đoạn Tư Hoặc nên bảo là: “Trước đã thoát Tứ Trụ”. Nhưng do tập khí sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp vẫn còn, chưa đoạn sạch nên bảo là: “Nhưng lục trần chửa không”. Ðây là luận về địa vị Thất Tín, chứ Bát, Cửu, Thập Tín đã phá được Trần Sa Hoặc nên tập khí đã hoàn toàn hết sạch. Tập khí là những dư âm của các Hoặc Chướng. Giống như cái mâm đựng thịt đã rửa sạch, nhưng vẫn còn có mùi hôi; bình đựng rượu tuy đã súc kỹ vẫn còn có mùi rượu. “Mắt vẫn còn màng mộng, thấy hoa đốm trên không” là: Vì chưa phá Vô Minh nên chưa thể thấy được bản thể của Pháp Giới

d. “Phần chứng tức Phật” là Thập Tín hậu tâm. Phá một phần Vô Minh, chứng một phần Tam Ðức nên gọi là “phần chứng tức Phật”. Là vì với bốn mươi hai phẩm Vô Minh, Sơ Trụ phá được một phần; cho đến Thập Trụ phá được mười phần. Từ các địa vị Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Ðịa cho đến Ðẳng Giác lần lượt phá được bốn mươi mốt phần. Bậc Sơ Trụthể hiện thân làm Phật trong thế giới không có Phật, lại còn tùy loại hiện thân độ thoát chúng sanh. Thần thông đạo lực của bậc này đã chẳng thể nghĩ bàn, huống hồ là càng lên mỗi địa vị trên càng thù thắng hơn nữa, nhất là địa vị thứ bốn mươi mốt là Ðẳng Giác Bồ Tát? Kệ tụng rằng: 

Khoát nhĩ tâm khai ngộ 

Trạm nhiên nhất thiết thông 

Cùng nguyên do vị tận 

Thượng kiến nguyệt mông lung 

(Ðột nhiên tâm khai ngộ

Lặng trong hết thảy thông, 

Vẫn chưa thông tận gốc 

Còn thấy nguyệt mông lung) 

“Ðột nhiên tâm khai ngộ, lặng trong hết thảy thông” là nói về cảnh tượng chứng ngộ đôi phần, phá được vô minh đôi phần. “Vẫn chưa thông tận gốc, còn thấy nguyệt mông lung” ý nói còn bị mây vô minh che lấp nên chưa thể thấy thấu tột ánh sáng của vần trăng thiên chơn trong tự tánh

e. “Cứu cánh thành Phật” là từ Ðẳng Giác lại phá một phần Vô Minh nên thấu đạt tột cùng Chơn Tánh, đoạn sạch Hoặc Chướng, phước huệ viên mãn, chứng ngộ triệt để Chơn Như Phật Tánh sẵn có ngay trong tâm mình, đạt địa vị Diệu Giác, thành Vô Thượng Bồ Ðề đạo. Kệ tụng rằng: 

Tùng lai chơn thị vọng 

Kim nhật vọng giai chơn 

Ðản phục bổn thời tánh 

Cánh vô nhất pháp tân. 

(Từ trước, chơn là vọng 

Hôm nay, vọng là chơn, 

Chỉ khôi phục bổn tánh 

Có pháp nào mới đâu?)

“Từ trước chơn là vọng” nghĩa là trước khi chứng ngộ tuy thấy Ngũ Uẩn này đều là không, nhưng lầm sanh chấp trước khiến cho Sắc Pháp, Tâm Pháp thành lập đến nỗi khổ ách theo đó sanh ra. Sau khi đã ngộ rồi, tuy vẫn thấy Ngũ Uẩn này, nhưng toàn thể đều là một Chơn Như, trọn chẳng có tướng Sắc, Tâm, Ngũ Uẩn. Vì thế, bảo là: “Hôm nay, vọng là chơn”. Nhưng sở chứng ấy nào phải là điều gì mới mẻ, chẳng qua là phục hồi lại Chơn Như Phật Tánh sẵn có đó thôi, vì thế bảo: “Chỉ khôi phục bổn tánh, có pháp nào mới đâu?” 

Lại nữa, chúng sanh còn mê thì thấy Phật, Bồ Tát và hết thảy chúng sanh đều là chúng sanh cho nên hủy báng Phật pháp, sát hại chúng sanh, chẳng biết là tội lỗi, trái lại còn coi đó là vui. Ðức Phật đã triệt ngộ tâm, chứng tâm “tâm, Phật, chúng sanh cả ba không sai biệt”, thấy hết thảy chúng sanh và Phật chẳng hai. Vì thế đều vì kẻ oán, người thân thuyết pháp khiến cho được độ thoát; dẫu là kẻ cực kỳ ác nghịch bất tín, tâm Phật cũng không hề có một niệm buông bỏ vì Phật thấy kẻ đó chính là vị Phật chưa thành vậy. 

Sáng hôm nay, ông Hoàng Hàm bảo tôi: “Pháp Sư Viên Anh nói đạo tràng sắp viên mãn. Ngày hoàn mãn sẽ cử hành phóng sanh. Ðến ngày 16 sẽ nói về Tam Quy, Ngũ Giới”, xin tôi vì đại chúng giảng đại ý việc phóng sanh và thọ Tam Quy, Ngũ Giới ngõ hầu mong đại chúng cùng phát tâm lợi vật, lợi người. Bởi thế, bây giờ tôi sẽ riêng tuyên giảng. 

Pháp hội này vốn là pháp hội Hộ Quốc Tức Tai. Nếu suy xét đến tận cùng nguyên do phát khởi tai nạn thì đa phần là vì sát sanh, ăn thịt mà ra. Vì thế, muốn ngưng dứt sát kiếp, phải bắt đầu từ việc kiêng giết chóc, ăn chay, bảo vệ, tiếc thương sanh mạng loài vật và chuộc mạng loài vật. Mọi người ai nấy phải nên phát tâm giữ gìn, thương tiếc sanh mạng loài vật. “Muốn biết binh đao trong cõi thế, lò mổ xin nghe tiếng nửa đêm” Hãy giữ hai câu ấy làm lời răn nhắc, tận lực cảnh tỉnh, kiêng dè

Ý nghĩa của việc phóng sanh là khiến cho mọi người phát tâm giữ gìn sanh mạng. Chính mình đã phóng sanh, đương nhiên sẽ chẳng sát sanh nữa. Chính mình đã chẳng phóng sanh, trông thấy người khác phóng sanh, lẽ nào còn nỡ sát sanh? Nếu ai nấy giữ gìn, thương tiếc sanh mạng, chẳng tàn hại nữa thì loài vật còn chẳng nỡ giết, huống hồ là giết người? Tự nhiên trừ được sát kiếp, chuyển được vận nước. Nhưng đời vẫn có kẻ một mặt bỏ tiền phóng sanh, một mặt vẫn sát sanh, ăn thịt như thường. Như vậy dù có chút công đức phóng sanh, vẫn e khó địch nổi tội lỗi sát sanh lớn lao! 

Hiện pháp hội này dự định ngày viên mãn sẽ cử hành phóng sanh, xin các vị phát tâm quyên trợ, tự lợi, lợi vật, công đức chẳng thể nghĩ bàn. Cho đến ngày kế đó, đệ tử quy ycúng dường chi, Ấn Quang tôi quyết định dùng hết vào việc ngăn ngừa tai nạn, trọn chẳng để dùng một đồng nào! Bởi lẽ, tôi là một ông Tăng trơ trọi, vốn đã không có chùa miếu, lại cũng chẳng có đồ đệ, trừ thức ăn, quần áo ra, có giữ tiền cũng vô dụng! Mai kia mạng chung, sau khi hỏa thiêu, đem tro rải xuống biển là hết chuyện, cũng chẳng cần phải tạo tháp và làm bất cứ hình thức kỷ niệm nào. 

Ngay cả việc quy y đây, từ đầu tôi vốn chẳng thuận, nhưng bởi cư sĩ Khuất Văn Lục và pháp Sư Viên Anh đốc thỉnh, viện lẽ các vị phát tâm cầu pháp tình ý ân cần, vì thỏa mãn ý nguyện của họ, chẳng thể khước từ, nên đành chấp thuận. Tôi vốn xem nhẹ tiền bạc, chẳng giống những người khác, mỗi tên đệ tử phải xuất tiền “hương kính” bao nhiêu đó mới chuẩn bị cho quy y. Tôi thì không tiền cũng quy y được, chỉ cần thành kính tu trì mà thôi. Bởi lẽ, chẳng thể coi chuyện quy y như chuyện mua bán, cần phải ra giá bao nhiêu đó mới mua được danh mục quy y! Như thế thì mới là tín đồ chơn thật quy y Tam Bảo, mới có thể đạt đại lợi ích liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14742)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11807)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12743)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10319)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12055)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15269)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11055)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10500)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12451)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16419)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14287)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11763)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14775)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12002)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16798)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11558)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12723)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11329)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12037)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52065)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15446)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13956)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11421)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13148)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12763)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13197)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17887)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12436)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12636)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54182)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14411)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9923)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13812)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57930)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14475)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20121)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13759)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15388)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17482)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13299)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11913)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13476)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14651)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12471)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12149)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12050)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13270)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12524)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13653)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13312)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25569)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12168)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14521)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11829)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42046)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28305)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38777)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14709)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12685)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16232)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant