Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ngày thứ bảy

25 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12685)
Ngày thứ bảy

ẤN QUANG ĐẠI SƯ KHAI THỊ
tại pháp hội Hộ Quốc Tức Tai tại Thượng Hải (1936)
(Nguyên tác: Ấn Quang Ðại Sư Hộ Quốc Tức Tai Pháp Ngữ)
(Liên Hương dịch theo bản in của Hoa Tạng Tịnh Tông Học Hội, Ðài Bắc)

Ấn Quang Ðại Sư Pháp Ngữ
(giảng tại pháp hội Hộ Quốc Tức Tai tại Thượng Hải - 1936)


Ngày thứ bảy:

Giảng về tội vọng ngữ và những sự như: đại hiếu trong nhà Phật, trí tri cách vật, già giặn, chắc thật niệm Phật v.v…

Ngày hôm nay, pháp hội viên mãn. Trong chớp mắt đã qua bảy ngày. Dù pháp hội đã mãn, nhưng đối với trách nhiệm hộ quốc tức tai, cho đến khi chấm dứt báo thân này, chúng ta nên xả thân thực hiện. Hễ còn một ai chưa ăn chay, niệm Phật, vãng sanh Tây Phương thì vẫn chưa thể coi là viên mãn rốt ráo được. 

Người học Phật hiện tại lắm kẻ tự thị ta đã khai ngộ, ta là Bồ Tát, ta đã đắc thần thông đến nỗi làm lắm kẻ khác bị lầm theo. Một mai Diêm lão réo mạng, lúc lâm chung, cầu sống chẳng được, đau khổ mà chết, khó tránh khỏi địa ngục A Tỳ. Chớ nên nhiễm đắm cái thói ham cao, ưa thắng, dối mình, lừa người ấy; nếu trót dính vào thì phải sửa ngay. Còn ai không vướng phải thói ấy thì càng phải cố tránh. Thật rất mong mỏi vậy. 

Sát, trộm, dâm… đều là trọng tội; nhưng vẫn còn có người biết những hành vi ấy chẳng tốt, không phải ai cũng mắc phải nên những tội ấy còn ít. Nếu chẳng tự lượng, phạm tội đại vọng ngữ, chưa đắc đã bảo đắc, chưa chứng đã nói chứng để lãnh đạo những hạng vô tri thì tội ấy càng nặng nề lắm. Hoại loạn Phật pháp, khiến chúng sanh ngờ vực, mê lầm, tội ấy chẳng thể hình dung được nổi! 

Người tu hành cần phải giấu tài, ẩn đức, phơi bày tội lỗi. Nếu chuộng hư trương thanh thế, bôi mặt, bày trò thì dù có tu hành cũng bị cái tâm kiêu hư ấy phá hoại quá nửa. Vì thế, Phật đặc biệt coi tội vọng ngữCăn Bản Giới, nhằm để ngăn ngừa tâm hư ngụy, ngõ hầu chơn tu, thực chứng. Thế nên, người tu hành chẳng được hướng về người khác khoe khoang công phu của chính mình. Nếu như vì chẳng hiểu rành rẽ, muốn cầu thiện tri khai thị, ấn chứng thì có thể tự trần thuật đúng ngay sự thực, chứ chẳng thể tự kiêu nói quá lên, cũng bất tất phải tự khiêm nói giảm đi, cứ nói đúng theo tình huống chân thật thì mới là đệ tử Phật chơn chánh, mới có thể ngày một tiến hơn. 

Lục Tổ Huệ Năng thiền sư nói: 

Phật pháp tại thế gian, 

Chẳng rời thế gian giác 

Lìa đời tìm Bồ Ðề 

Khác nào tìm sừng thỏ

Nên ta biết rằng hết thảy sự vật trong thế gian đều là Phật pháp. Chúng ta khởi tâm động niệm đều phải rành rẽ, minh bạch, chẳng được để vọng niệm làm mê. Từ những hạng người cực ác, bại hoại cùng cực trong thế gian cho đến những đứa trẻ non nớt nếu có ai nhắc đến những điều bất thiện cũng giận, nghe điều lành thì vui. 

Sự giận dữ đối với điều bất thiện, vui vẻ đối với điều thiện chính là do Bản Giác từ Chơn Tâm phát hiện. Chỉ tiếc là chẳng biết xoay lại để mở rộng điều thiện, vẫn cứ suốt ngày làm chuyện chẳng lành, đến nỗi hữu danh vô thực, lọt vào hạng tiểu nhân. Giả sử họ có thể tự phản tỉnh: “Mình đã vui với điều thiện thì hãy nên tận lực làm việc lành, tận lực ngăn ngừa điều ác thì dù kém cỏi nhất cũng may ra thành hiền, thành thánh; còn cao tột thì liễu sanh thoát tử, thành tựu Phật đạo vậy!” 

Ðiều trọng yếutự giác. Hễ giác thì sẽ chẳng chạy theo mê tình, cuối cùng đạt đến chỗ giác vĩnh viễn chẳng mê. Nếu chẳng giác sẽ suốt ngày muốn người khác xưng tụng mình là lành, nhưng vẫn suốt ngày làm các điều ác, chẳng đáng thương xót lắm ư? Bởi vậy, [sự kiện] con người ai cũng có ý niệm muốn được người khác khen là lành đủ chứng tỏ chúng sanh ai cũng đều có Phật tánh, nhưng hành vi thuận theo tánh hay trái nghịch tánh một phần là do mình tự cố gắng hay tự buông lung, một phần là do thiện hay ác tri thức chỉ bày, dẫn dụ. 

Hiện nay, tai nạn phát sanh dồn dập, quá nửa là do con người chẳng chú trọng thực tế, uổng công chạy theo hư danh, ham danh ghét thật, trái nghịch bản tâm mà nên nỗi! Nếu có thể hồi quang phản chiếu, phát huy Phật tánh vốn đã sẵn có, chẳng khinh mình, khinh người, hiểu rõ lễ nghĩa, biết liêm sỉ thì cái căn bản đã lập, chẳng còn có hạnh nghịch lý bội đức, ắt tai hoạn sẽ tự dứt vậy! Người học Phật cần nhất là phải trọn hết bổn phận. Tròn bổn phận thì sẽ có liêm, có sỉ. Những hạnh như cha từ, con hiếu, anh mến, em kính đều nên nỗ lực thực hành

Sách Ðại Học có câu: “Ðại học chi đạo, tại minh minh đức” (Ðạo đại học cốt ở chỗ làm sáng tỏ cái đức sáng). Chữ “minh” thứ nhất là tu tỉnh, khắc kỷ, tuân theo lễ nghĩa. Hai chữ “minh đức” tiếp đó chỉ đức hạnh gồm: ý chơn thành, tâm chơn chánh, sửa trị thân mình, giữ yên gia đình… Muốn làm sáng tỏ minh đức đó, không bắt đầu từ ý chơn thành, khắc kỷ thì không xong! 

Tiến lên nữa, mới có thể nói: “Tại thân dân, tại chỉ vu chí thiện”. Chữ “thân dân” ở đây hàm nghĩa ta - người nhất thể, xem người như mình, ai nấy tận hết bổn phận. “Chỉ vu chí thiện” nghĩa là động, tịnh đều theo lễ, chẳng buông lung khi ở nơi nhà tối, tự thực hành, dạy người thực hành, thuận theo thiên lý, tình người, là Trung Ðạo chẳng lệch, chẳng khuất khúc. Ðược như vậy sẽ là thánh, là hiền, dễ được mấy ai? 

Vả nữa, Phật pháp nhằm dạy người đối trị phiền não, tập khí nên có Tam Học: Giới, Ðịnh, Huệ làm căn bản. Bởi lẽ, hễ đã răn dè, ràng buộc cái thân, sẽ chẳng dám làm điều trái đức, phi lễ, chẳng dám thốt lời gây tổn hại. Do Giới sanh Ðịnh nên những tạp niệm vọng loạn rối bời trong tâm sẽ dần tiêu, những điều hồ đồ, hôn muội, đáng thẹn sẽ tự ngưng. Do Ðịnh phát Huệ nên Chánh Trí khai phát, phiền hoặc tiêu diệt. [Ðược vậy thì] khi thực hiện các thiện pháp thế gian hay xuất thế gian sẽ không có pháp nào là chẳng phù hợp với Trung Ðạo cả! 

Ba thứ Giới, Ðịnh, Huệ đều là Tu Ðức, đều là những điều do chính Chánh Trí thể hội tâm thể. Ðấy chính là Minh Ðức. Sách Trung Dung gọi Minh Ðức này là “thành”. Thành tức là thuần chơn vô vọng. Minh Ðức tức là “ly niệm linh tri”. Thành và Minh Ðức đều thuộc về Tánh Ðức do phải khắc kỷ, tu tỉnh tu trì thì tánh đức mới hiển lộ. Bởi thế, Nho gia chú trọng vào chữ “minh” thứ nhất vì hễ đã minh Minh Ðức thì sẽ thấy thấu suốt, sẽ minh vĩnh viễn. Phật phápthế pháp vốn chẳng hai. 

Có kẻ cho rằng nhà Phật “từ thân cát ái” là bất hiếu thì đó là cái nhìn hạn cuộc trong đời này, là cái nhìn nông cạn chưa biết được quá khứ, vị lai. Chữ hiếu đối với cha mẹ trong nhà Phật thông suốt cả ba đời. Vì thế kinh Phạm Võng dạy: “Nếu là Phật tử thì do từ tâm sẽ hành nghiệp phóng sanh, coi hết thảy đàn ông là cha mình, coi hết thảy nữ nhân là mẹ mình. Trong đời đời, không lúc nào ta không do họ sanh ra. Bởi vậy, lục đạo chúng sanh đều là cha mẹ ta. Giết họ để ăn thì khác gì giết cha mẹ để ăn thịt đâu?” 

Ðối với hết thảy chúng sanh, nhà Phật đều có thể thương xót, nghĩ mong độ thoát nên sự Hiếu ấy lớn lao thay! Huống hồ, lại còn độ cho cha mẹ vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, há có sự hiếu thế gian nào sánh bằng nổi ư? Thế nhân cứ nghĩ: cha mẹ còn sống thì chăm chút, phụng dưỡng, cha mẹ đã mất thì đến ngày mất bày thức ăn cúng tế mới là tận dạ làm con. Giả như cha mẹ tạo trọng tội, phải đọa trong dị loại, nào ai dám chắc là trong đám sinh vật mình giết hại để cúng tế ấy hoàn toàn chẳng có cha mẹ mình trong số đó ư? 

Mê muộitam thế vô tận nên mới vin vào sự hiếu nhỏ nhoi ấy mươi năm mà trách Phật. Sự thấy biết nhỏ nhoi, nông cạn ấy cũng đáng nực cười thay! Vì thế, Phật dạy người ta tránh giết, phóng sanh, ăn chay, niệm Phật, thực có thể nói là lòng hiếu từ vô tận vậy. 

Hoặc lại có kẻ bảo: “Heo, dê, cá, tôm… vốn do trời sanh để nuôi dưỡng con người, ăn chúng nào có mắc tội gì?” Ðây là do chưa trải qua cảnh đó nên nói xằng như thế. Nếu đích thân gánh chịu nỗi khổ của chúng liền sẽ mong được cứu không ngơi, chứ còn rảnh đâu để biện bác

Sách Khuyến Giới Lục Loại Biên có chép: Ông họ Triệu nọ ở Bồ Thành, tỉnh Phước Kiến kiêng sát sanh đã lâu, vợ ông tàn nhẫn, ham ăn thịt. Ngày hôm trước hôm sinh nhật, bà mua khá nhiều sanh vật để giết đãi khách. Họ Triệu bảo: “Bà muốn chúc thọ lại khiến chúng bị chết mà yên lòng sao?” Vợ bảo: “Toàn là lời nhảm cả! Nếu theo như Phật pháp, nam nữ chẳng được ngủ chung, chẳng giết sanh mạng thì hóa ra mấy mươi năm sau, cả thế gian chỉ còn toàn là súc sanh sao?” Ông Triệu biết không cách nào khuyên giải được, đành phải chịu phép. 

Ðến đêm, người vợ mơ thấy đi vào nhà bếp, thấy giết heo mà chính mình bị biến thành heo, bị giết rồi vẫn còn biết đau. Lúc bị cạo lông, phanh bụng, móc ruột, lóc chân càng đau khổ không chịu nổi. Và khi giết gà, vịt v.v… đều thấy chính mình biến thành những con vật bị giết. Ðau đến nỗi tỉnh cả ngủ, tâm run, thịt giựt. Từ đấy phát tâm thả hết những loài vật mình đã mua, ăn chay trường. Người này đời trước có đại thiện căn nên mới cảm được Phật từ gia bị, khiến được đích thân chịu khổ để dứt ác nghiệp. Chứ nếu không sẽ đời đời, kiếp kiếp nộp thân cho người ăn nuốt để đền nợ. 

Những kẻ giết sanh vật ăn thịt trong đời này nếu có thể đặt mình vào hoàn cảnh của loài vật thì khó gì mà chẳng lập địa hồi đầu. Nếu như nói: “Trời sanh các loài heo, dê… để nuôi dưỡng con người” thì thử hỏi phải chăng trời sanh ra con người để nuôi dưỡng những loài hổ, sói, muỗi, rệp… ư? Chẳng đáng bõ cười thay! 

Lại có một hạng người nói: “Ta ăn thịt trâu, dê, gà, vịt… là muốn độ thoát chúng nó!” Trong Hiển Giáo chẳng có thuyết này, trong Mật Giáo cũng chẳng hề có. Nếu quả thậtthần thông như Tế Ðiên Hòa Thượng cũng còn tạm được. Chứ nếu không, đó chỉ là tà thuyết khiến người lầm lạc, tự chuốc lấy tội. Chỉ hạng cực vô liêm sỉ mới dám nói thế! Nếu đã có thể giết chúng để độ thì cha mẹ tối tôn trọng, vợ con tối thân ái sao chẳng giết sạch đi để ăn thịt hòng độ họ? Những kẻ hoang đường, quái đản ấy còn biết nói gì nữa! 

Thời Nam Lương, tại núi Thanh Thành ở đất Thục (nay là Tứ Xuyên), có vị Tăng tên là Ðạo Hương, có đại thần lực, nhưng giấu kín chẳng tiết lộ. Núi ấy có lệ hằng năm mở hội, trong ngày hội mọi người ăn uống no say, giết hại sanh vật vô số. Ngài Ðạo Hương khuyên can nhiều lần, họ chẳng nghe. Năm ấy, ngài đào một cái hố to ở ngoài cửa núi, bảo mọi người: “Các ông đã ăn no, xin chia cho tôi một bát canh, có được không?” Mọi người ưng thuận. Khi đó, ngài Ðạo Hương cũng ăn uống no say, nhờ người dìu đến trước hang ọe hết ra. Những con vật ngài đã ăn vào: Con nào bay được thì bay lên, con nào chạy thì chạy đi, tôm, cá, thủy tộc ói ra ngập cả hố. Mọi người kinh sợ, liền vĩnh viễn kiêng sát sanh. Về sau, ngài Ðạo Hương nghe lời Chí Công liền hóa (Có người đất Thục đến kinh đô yết kiến ngài Chí Công. Chí Công hỏi: “Người xứ nào?” Ðáp: “Tứ Xuyên”. Chí Công bảo: “Ông Hương ở Tứ Xuyên được kính trọng hay coi thường?” Ðáp: “Coi rất thường”. Chí Công bảo: “Bị người coi thường sao chẳng hóa đi”. Người đó trở về núi Thanh Thành, thuật cho Ðạo Hương nghe lời ngài Chí Công. Ngài Ðạo Hương nghe lời ấy xong liền hóa). 

Nên biết rằng những người ẩn kín trong đời, một khi hiển thị thần thông xong sẽ lìa đời tịch diệt để khỏi bị phiền não. Còn không thì phải như ngài Tế Ðiên làm ra vẻ si cuồng, điên dại khiến không ai dò biết được ngài ảo diệu đến đâu, mới yên.

Người học Phật cần phải bỏ cái thấy ta - người, tự lập, lập người. Có vậy mới có thể nói là nhập đạo. Tức là như sách Ðại Học chép: “Cổ chi dục minh minh đức vu thiên hạ giả, tiên trị kỳ quốc. Dục trị kỳ quốc giả, tiên tề kỳ gia. Dục tề kỳ gia, tiên tu kỳ thân. Dục tu kỳ thân giả, tiên chánh kỳ tâm. Dục chánh kỳ tâm, tiên thành kỳ ý. Dục thành kỳ ý giả, tiên trí kỳ tri. Trí tri tại cách vật” (Người xưa muốn làm sáng tỏ đức sáng trong thiên hạ thì trước hết phải giữ yên đất nước. Muốn giữ yên đất nước thì trước hết phải yên định gia đình. Muốn yên định gia đình thì trước hết phải sửa đổi thân mình. Muốn sửa đổi thân mình thì trước hết phải ngay chánh tâm mình. Muốn ngay chánh tâm mình thì trước hết phải giữ cho ý mình chơn thành. Muốn chơn thành ý mình thì trước hết phải đạt đến chỗ hiểu biết. Ðạt đến chỗ hiểu biết nằm ở chỗ trừ khử vật dục). 

Chữ “vật” ở đây chỉ vật dục chẳng phù hợp với thiên lý và tình người. Hễ đã có tư dục ắt tri kiến sẽ thiên tà, chẳng còn công chánh nữa. Lệ như đã yêu vợ, thương con thì dù vợ con có hư đốn cũng chẳng cần biết đến. Do đắm chìm, mê mệt với tư dục nên lương tri sẵn có bị khuất lấp, đến nỗi sự hiểu biết trở thành sai quấy thiên tà, bất chánh

Nếu có thể trừ khử (cách trừ) sạch được tư dục thì vợ con đúng hay sai sẽ thấy ngay lập tức. Bởi thế, một chuyện “cách vật” (trừ khử vật dục) ở đây cần phải giảng thống thiết, chớ có lầm hiểu “cách vật” nghĩa là thông suốt cùng tột lý của mọi sự vật trong thiên hạ. Trừ khử tư dục trong tự tâm mới chính là căn bản của việc “minh Minh Ðức”. Thông đạt tận cùng lý tánh của sự vật trong cõi đời chỉ là chuyện cành phụ, đầu nhánh. Lấy chuyện cành phụ, đầu nhánh làm căn bản trọng yếu thì lạ gì thiên hạ chẳng loạn lạc hết thuốc chữa nổi! 

Phật pháp trừ khử tham, sân, si cũng là “cách vật”. Tu Giới - Ðịnh - Huệ chính là “trí tri”. Vật Tham Sân Si chất chứa trong tự tâm thì cũng như đeo cặp kính màu nhìn mọi vật sẽ chẳng thể thấy được sắc thật của từng vật. Họa hại của vật dục chẳng đáng sợ sao? 

Người niệm Phật cũng đừng nên tự cậy thông minh, trí huệ, mà cần phải vứt bỏ những điều ấy ra tận ngoài biển Ðông. Nếu chẳng vậy sẽ luôn bị chúng làm lầm lạc, tự bị liên lụy. Bởi lẽ, sẽ bị tri kiến ngăn che chẳng thể nhất tâm được, chẳng bằng hạng ngu phu, ngu phụ niệm Phật. Chánh tâm, thành ý được hưởng ích lợi rất lớn. Vì thế, một pháp Niệm Phật tốt nhất là phải học theo những kẻ quê mùa, ngu độn, lấy việc già giặn, chắc thật hành trì làm trọng. 

Tục ngữ bảo: “Thông minh rốt cục bị lầm vì thông minh”, chẳng đáng sợ sao? Như bà vợ của ông Trịnh Bá Thuần, một đệ tử quy y của tôi ở huyện Bảo Sơn, tỉnh Vân Nam. Bà trường trai niệm Phật nhiều năm. Người con trưởng tên Huệ Hồng đã chết hai năm trước. Bà vợ do thương con quá nên uống thuốc độc. Bà trọn không có tướng trạng khổ sở, đoan tọa niệm Phật qua đời. Ðã chết rồi sắc mặt càng sáng nhuận, kinh động cả một phương. Ông Bá Thuần là bậc lão nho đề xướng niệm Phật, ít có người tin, nhưng do cái chết của vợ con ông, mà mười người đã hết tám, chín người tin theo. Phàm đoan tọa niệm Phật qua đời, nếu không bịnh mà thác đã chẳng dễ gì, nhưng do uống thuốc độc mà chết còn hiện được tướng đó, nếu chẳng phải là đã đắc Tam Muội nên chất độc chẳng làm hại được thì làm sao đạt được như vậy? Nhưng uống thuốc độc tự sát là điều Phật pháp cấm đoán, đừng tưởng vậy là hay, cũng đừng khinh thường làm thử, những vị nghe giảng phải dè chừng. 

Ông Tống Dương Kiệt, tự là Thứ Công, hiệu Vô Vi Tử, tham học với Thiên Y Nghĩa Hoài thiền sư, đại ngộ. Sau nhân cư tang mẹ, duyệt Ðại Tạng, hiểu sâu xa sự thù thắng của pháp môn Tịnh Ðộ nên tự hành, dạy người hành. Lâm chung nói kệ rằng: 

Sanh diệc vô khả luyến 

Tử diệc vô khả xả, 

Thái hư không trung chi hồ giả dã, 

Tương thác tựu thác: Tây Phương Cực Lạc 

(Sanh thì cũng chẳng tiếc gì, 

Chết rồi cũng chẳng bỏ đi đâu nào, 

Hư không hư huyễn sá chi, 

Ðem lầm bù lẫn để về Tây Phương)

Ông Dương Kiệt sau khi đại ngộ, quy tâm Tịnh Ðộ, cực lực đề xướng; đến lúc lâm chung nhận biết: Trong chơn tánh thì sanh tử như hoa đốm trong hư không, nhưng do chưa chứng được chơn tánh thì chẳng thể không cầu vãng sanh Tây Phương để chứng được. “Ðem lầm bù lẫn” nghĩa là nếu đã triệt chứng chơn tánh thì bất tất phải cầu sanh Tây Phương chi nữa. Cầu được vãng sanh vẫn còn là lầm lạc, nhưng nếu chưa chứng ngộ chơn tánh thì chẳng thể không cầu vãng sanh Tây Phương cho nên mới nói: “Ðem lầm bù lẫn để về Tây Phương”. Trong tác phẩm Vãng Sanh Tập, cuối truyện ông Tống Dương Kiệt, Liên Trì Ðại Sư đã tán như sau: “Tôi mong những kẻ thông minh tài trí trong thiên hạ đều có thể thành tựu loại lầm lạc này. Ðấy có thể bảo là thực sự đại thông minh mà chẳng bị thông minh làm lầm lạc vậy”. 

Như ông Tô Ðông Pha đời Tống, tuy là hậu thân của Ngũ Tổ Giới Diễn thiền sư, luôn mang một bức tranh Phật A Di Ðà theo bên mình, bảo: “Ðây là công cứ Tây Phương của cả đời ta”. Nhưng đến lúc lâm chung, trưởng lão Duy Lam ở Kính Sơn khuyên nhủ đừng quên Tây Phương, Ðông Pha nói: “Tây Phương tự có, nhưng chẳng thể dốc sức vào đấy được!” Môn nhân Tiền Thế Hùng bảo: “Ðấy chính là chỗ tiên sinh thường hành trì, hãy nên dốc sức”. Ðông Pha đáp: “Hễ dốc sức vào thì đã là sai rồi!” Nói xong liền mất. Ðấy chính là bằng chứng hùng hồn của chuyện bị thông minh gây tự lầm lạc vậy. Mong quý vị tránh khỏi được điều này. 

Pháp môn Tịnh Ðộ khế lý, khế cơ, dùng sức ít mà thành công dễ, như đã căng buồm lại còn thuận nước vì nhờ vào Phật lực. Các tông khác dùng sức nhiều mà thành công khó như con kiến bò lên núi cao vì toàn cậy vào tự lực. Ðẳng Giác Bồ Tát muốn cầu viên mãn Phật Quả còn cần phải cầu sanh Tây Phương, huống hồ là bọn phàm phu chúng ta nghiệp căn thâm trọng, sao còn chẳng chịu dốc sức vào pháp này? Ðấy là bỏ dễ cầu khó, lầm lạc cùng cực thay! 

Nay những dụng cụ giết người trong thế gian mỗi ngày mỗi mới mẻ, mỗi tháng mỗi khác biệt, nào là phi cơ, đại bác, độc khí, tia sáng giết người v.v… Núi, sông chẳng ngăn trở nổi, vật cứng còn chẳng chống chọi được thì cái thân huyết nhục của bọn chúng ta làm sao đương cự nổi? Mạng người như giọt sương buổi sớm, vô thường một khi xảy đến, vạn sự đều thôi. Bởi thế, muốn cầu lìa khổ được vui thì phải nên gấp gáp nỗ lực niệm Phật, cầu Phật gia bị. Lâm chung vãng sanh, một phen đạt lên cõi kia, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển, hoa nở thấy Phật, chứng được Vô Sanh, mới chẳng cô phụ chuyện được nghe pháp này mà tin nhận vậy. Kính mong đại chúng hành trì, đấy là điều tôi rất mong mỏi
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14765)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11830)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12764)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10348)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12069)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15297)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11087)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10539)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12476)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16428)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14312)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11790)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14807)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12031)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16858)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11589)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12737)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11347)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12061)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52131)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15469)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13968)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11442)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13185)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12788)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13224)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17916)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12454)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12656)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54212)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14430)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9935)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13827)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57976)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14504)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20144)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13792)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15404)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17496)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13314)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11935)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13490)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14671)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12493)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12157)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12065)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13291)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12543)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13659)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13322)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25601)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12180)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14560)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11864)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42074)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28347)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38808)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14724)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12699)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16241)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant