Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngày thứ bảy

25 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12686)
Ngày thứ bảy

ẤN QUANG ĐẠI SƯ KHAI THỊ
tại pháp hội Hộ Quốc Tức Tai tại Thượng Hải (1936)
(Nguyên tác: Ấn Quang Ðại Sư Hộ Quốc Tức Tai Pháp Ngữ)
(Liên Hương dịch theo bản in của Hoa Tạng Tịnh Tông Học Hội, Ðài Bắc)

Ấn Quang Ðại Sư Pháp Ngữ
(giảng tại pháp hội Hộ Quốc Tức Tai tại Thượng Hải - 1936)


Ngày thứ bảy:

Giảng về tội vọng ngữ và những sự như: đại hiếu trong nhà Phật, trí tri cách vật, già giặn, chắc thật niệm Phật v.v…

Ngày hôm nay, pháp hội viên mãn. Trong chớp mắt đã qua bảy ngày. Dù pháp hội đã mãn, nhưng đối với trách nhiệm hộ quốc tức tai, cho đến khi chấm dứt báo thân này, chúng ta nên xả thân thực hiện. Hễ còn một ai chưa ăn chay, niệm Phật, vãng sanh Tây Phương thì vẫn chưa thể coi là viên mãn rốt ráo được. 

Người học Phật hiện tại lắm kẻ tự thị ta đã khai ngộ, ta là Bồ Tát, ta đã đắc thần thông đến nỗi làm lắm kẻ khác bị lầm theo. Một mai Diêm lão réo mạng, lúc lâm chung, cầu sống chẳng được, đau khổ mà chết, khó tránh khỏi địa ngục A Tỳ. Chớ nên nhiễm đắm cái thói ham cao, ưa thắng, dối mình, lừa người ấy; nếu trót dính vào thì phải sửa ngay. Còn ai không vướng phải thói ấy thì càng phải cố tránh. Thật rất mong mỏi vậy. 

Sát, trộm, dâm… đều là trọng tội; nhưng vẫn còn có người biết những hành vi ấy chẳng tốt, không phải ai cũng mắc phải nên những tội ấy còn ít. Nếu chẳng tự lượng, phạm tội đại vọng ngữ, chưa đắc đã bảo đắc, chưa chứng đã nói chứng để lãnh đạo những hạng vô tri thì tội ấy càng nặng nề lắm. Hoại loạn Phật pháp, khiến chúng sanh ngờ vực, mê lầm, tội ấy chẳng thể hình dung được nổi! 

Người tu hành cần phải giấu tài, ẩn đức, phơi bày tội lỗi. Nếu chuộng hư trương thanh thế, bôi mặt, bày trò thì dù có tu hành cũng bị cái tâm kiêu hư ấy phá hoại quá nửa. Vì thế, Phật đặc biệt coi tội vọng ngữCăn Bản Giới, nhằm để ngăn ngừa tâm hư ngụy, ngõ hầu chơn tu, thực chứng. Thế nên, người tu hành chẳng được hướng về người khác khoe khoang công phu của chính mình. Nếu như vì chẳng hiểu rành rẽ, muốn cầu thiện tri khai thị, ấn chứng thì có thể tự trần thuật đúng ngay sự thực, chứ chẳng thể tự kiêu nói quá lên, cũng bất tất phải tự khiêm nói giảm đi, cứ nói đúng theo tình huống chân thật thì mới là đệ tử Phật chơn chánh, mới có thể ngày một tiến hơn. 

Lục Tổ Huệ Năng thiền sư nói: 

Phật pháp tại thế gian, 

Chẳng rời thế gian giác 

Lìa đời tìm Bồ Ðề 

Khác nào tìm sừng thỏ

Nên ta biết rằng hết thảy sự vật trong thế gian đều là Phật pháp. Chúng ta khởi tâm động niệm đều phải rành rẽ, minh bạch, chẳng được để vọng niệm làm mê. Từ những hạng người cực ác, bại hoại cùng cực trong thế gian cho đến những đứa trẻ non nớt nếu có ai nhắc đến những điều bất thiện cũng giận, nghe điều lành thì vui. 

Sự giận dữ đối với điều bất thiện, vui vẻ đối với điều thiện chính là do Bản Giác từ Chơn Tâm phát hiện. Chỉ tiếc là chẳng biết xoay lại để mở rộng điều thiện, vẫn cứ suốt ngày làm chuyện chẳng lành, đến nỗi hữu danh vô thực, lọt vào hạng tiểu nhân. Giả sử họ có thể tự phản tỉnh: “Mình đã vui với điều thiện thì hãy nên tận lực làm việc lành, tận lực ngăn ngừa điều ác thì dù kém cỏi nhất cũng may ra thành hiền, thành thánh; còn cao tột thì liễu sanh thoát tử, thành tựu Phật đạo vậy!” 

Ðiều trọng yếutự giác. Hễ giác thì sẽ chẳng chạy theo mê tình, cuối cùng đạt đến chỗ giác vĩnh viễn chẳng mê. Nếu chẳng giác sẽ suốt ngày muốn người khác xưng tụng mình là lành, nhưng vẫn suốt ngày làm các điều ác, chẳng đáng thương xót lắm ư? Bởi vậy, [sự kiện] con người ai cũng có ý niệm muốn được người khác khen là lành đủ chứng tỏ chúng sanh ai cũng đều có Phật tánh, nhưng hành vi thuận theo tánh hay trái nghịch tánh một phần là do mình tự cố gắng hay tự buông lung, một phần là do thiện hay ác tri thức chỉ bày, dẫn dụ. 

Hiện nay, tai nạn phát sanh dồn dập, quá nửa là do con người chẳng chú trọng thực tế, uổng công chạy theo hư danh, ham danh ghét thật, trái nghịch bản tâm mà nên nỗi! Nếu có thể hồi quang phản chiếu, phát huy Phật tánh vốn đã sẵn có, chẳng khinh mình, khinh người, hiểu rõ lễ nghĩa, biết liêm sỉ thì cái căn bản đã lập, chẳng còn có hạnh nghịch lý bội đức, ắt tai hoạn sẽ tự dứt vậy! Người học Phật cần nhất là phải trọn hết bổn phận. Tròn bổn phận thì sẽ có liêm, có sỉ. Những hạnh như cha từ, con hiếu, anh mến, em kính đều nên nỗ lực thực hành

Sách Ðại Học có câu: “Ðại học chi đạo, tại minh minh đức” (Ðạo đại học cốt ở chỗ làm sáng tỏ cái đức sáng). Chữ “minh” thứ nhất là tu tỉnh, khắc kỷ, tuân theo lễ nghĩa. Hai chữ “minh đức” tiếp đó chỉ đức hạnh gồm: ý chơn thành, tâm chơn chánh, sửa trị thân mình, giữ yên gia đình… Muốn làm sáng tỏ minh đức đó, không bắt đầu từ ý chơn thành, khắc kỷ thì không xong! 

Tiến lên nữa, mới có thể nói: “Tại thân dân, tại chỉ vu chí thiện”. Chữ “thân dân” ở đây hàm nghĩa ta - người nhất thể, xem người như mình, ai nấy tận hết bổn phận. “Chỉ vu chí thiện” nghĩa là động, tịnh đều theo lễ, chẳng buông lung khi ở nơi nhà tối, tự thực hành, dạy người thực hành, thuận theo thiên lý, tình người, là Trung Ðạo chẳng lệch, chẳng khuất khúc. Ðược như vậy sẽ là thánh, là hiền, dễ được mấy ai? 

Vả nữa, Phật pháp nhằm dạy người đối trị phiền não, tập khí nên có Tam Học: Giới, Ðịnh, Huệ làm căn bản. Bởi lẽ, hễ đã răn dè, ràng buộc cái thân, sẽ chẳng dám làm điều trái đức, phi lễ, chẳng dám thốt lời gây tổn hại. Do Giới sanh Ðịnh nên những tạp niệm vọng loạn rối bời trong tâm sẽ dần tiêu, những điều hồ đồ, hôn muội, đáng thẹn sẽ tự ngưng. Do Ðịnh phát Huệ nên Chánh Trí khai phát, phiền hoặc tiêu diệt. [Ðược vậy thì] khi thực hiện các thiện pháp thế gian hay xuất thế gian sẽ không có pháp nào là chẳng phù hợp với Trung Ðạo cả! 

Ba thứ Giới, Ðịnh, Huệ đều là Tu Ðức, đều là những điều do chính Chánh Trí thể hội tâm thể. Ðấy chính là Minh Ðức. Sách Trung Dung gọi Minh Ðức này là “thành”. Thành tức là thuần chơn vô vọng. Minh Ðức tức là “ly niệm linh tri”. Thành và Minh Ðức đều thuộc về Tánh Ðức do phải khắc kỷ, tu tỉnh tu trì thì tánh đức mới hiển lộ. Bởi thế, Nho gia chú trọng vào chữ “minh” thứ nhất vì hễ đã minh Minh Ðức thì sẽ thấy thấu suốt, sẽ minh vĩnh viễn. Phật phápthế pháp vốn chẳng hai. 

Có kẻ cho rằng nhà Phật “từ thân cát ái” là bất hiếu thì đó là cái nhìn hạn cuộc trong đời này, là cái nhìn nông cạn chưa biết được quá khứ, vị lai. Chữ hiếu đối với cha mẹ trong nhà Phật thông suốt cả ba đời. Vì thế kinh Phạm Võng dạy: “Nếu là Phật tử thì do từ tâm sẽ hành nghiệp phóng sanh, coi hết thảy đàn ông là cha mình, coi hết thảy nữ nhân là mẹ mình. Trong đời đời, không lúc nào ta không do họ sanh ra. Bởi vậy, lục đạo chúng sanh đều là cha mẹ ta. Giết họ để ăn thì khác gì giết cha mẹ để ăn thịt đâu?” 

Ðối với hết thảy chúng sanh, nhà Phật đều có thể thương xót, nghĩ mong độ thoát nên sự Hiếu ấy lớn lao thay! Huống hồ, lại còn độ cho cha mẹ vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, há có sự hiếu thế gian nào sánh bằng nổi ư? Thế nhân cứ nghĩ: cha mẹ còn sống thì chăm chút, phụng dưỡng, cha mẹ đã mất thì đến ngày mất bày thức ăn cúng tế mới là tận dạ làm con. Giả như cha mẹ tạo trọng tội, phải đọa trong dị loại, nào ai dám chắc là trong đám sinh vật mình giết hại để cúng tế ấy hoàn toàn chẳng có cha mẹ mình trong số đó ư? 

Mê muộitam thế vô tận nên mới vin vào sự hiếu nhỏ nhoi ấy mươi năm mà trách Phật. Sự thấy biết nhỏ nhoi, nông cạn ấy cũng đáng nực cười thay! Vì thế, Phật dạy người ta tránh giết, phóng sanh, ăn chay, niệm Phật, thực có thể nói là lòng hiếu từ vô tận vậy. 

Hoặc lại có kẻ bảo: “Heo, dê, cá, tôm… vốn do trời sanh để nuôi dưỡng con người, ăn chúng nào có mắc tội gì?” Ðây là do chưa trải qua cảnh đó nên nói xằng như thế. Nếu đích thân gánh chịu nỗi khổ của chúng liền sẽ mong được cứu không ngơi, chứ còn rảnh đâu để biện bác

Sách Khuyến Giới Lục Loại Biên có chép: Ông họ Triệu nọ ở Bồ Thành, tỉnh Phước Kiến kiêng sát sanh đã lâu, vợ ông tàn nhẫn, ham ăn thịt. Ngày hôm trước hôm sinh nhật, bà mua khá nhiều sanh vật để giết đãi khách. Họ Triệu bảo: “Bà muốn chúc thọ lại khiến chúng bị chết mà yên lòng sao?” Vợ bảo: “Toàn là lời nhảm cả! Nếu theo như Phật pháp, nam nữ chẳng được ngủ chung, chẳng giết sanh mạng thì hóa ra mấy mươi năm sau, cả thế gian chỉ còn toàn là súc sanh sao?” Ông Triệu biết không cách nào khuyên giải được, đành phải chịu phép. 

Ðến đêm, người vợ mơ thấy đi vào nhà bếp, thấy giết heo mà chính mình bị biến thành heo, bị giết rồi vẫn còn biết đau. Lúc bị cạo lông, phanh bụng, móc ruột, lóc chân càng đau khổ không chịu nổi. Và khi giết gà, vịt v.v… đều thấy chính mình biến thành những con vật bị giết. Ðau đến nỗi tỉnh cả ngủ, tâm run, thịt giựt. Từ đấy phát tâm thả hết những loài vật mình đã mua, ăn chay trường. Người này đời trước có đại thiện căn nên mới cảm được Phật từ gia bị, khiến được đích thân chịu khổ để dứt ác nghiệp. Chứ nếu không sẽ đời đời, kiếp kiếp nộp thân cho người ăn nuốt để đền nợ. 

Những kẻ giết sanh vật ăn thịt trong đời này nếu có thể đặt mình vào hoàn cảnh của loài vật thì khó gì mà chẳng lập địa hồi đầu. Nếu như nói: “Trời sanh các loài heo, dê… để nuôi dưỡng con người” thì thử hỏi phải chăng trời sanh ra con người để nuôi dưỡng những loài hổ, sói, muỗi, rệp… ư? Chẳng đáng bõ cười thay! 

Lại có một hạng người nói: “Ta ăn thịt trâu, dê, gà, vịt… là muốn độ thoát chúng nó!” Trong Hiển Giáo chẳng có thuyết này, trong Mật Giáo cũng chẳng hề có. Nếu quả thậtthần thông như Tế Ðiên Hòa Thượng cũng còn tạm được. Chứ nếu không, đó chỉ là tà thuyết khiến người lầm lạc, tự chuốc lấy tội. Chỉ hạng cực vô liêm sỉ mới dám nói thế! Nếu đã có thể giết chúng để độ thì cha mẹ tối tôn trọng, vợ con tối thân ái sao chẳng giết sạch đi để ăn thịt hòng độ họ? Những kẻ hoang đường, quái đản ấy còn biết nói gì nữa! 

Thời Nam Lương, tại núi Thanh Thành ở đất Thục (nay là Tứ Xuyên), có vị Tăng tên là Ðạo Hương, có đại thần lực, nhưng giấu kín chẳng tiết lộ. Núi ấy có lệ hằng năm mở hội, trong ngày hội mọi người ăn uống no say, giết hại sanh vật vô số. Ngài Ðạo Hương khuyên can nhiều lần, họ chẳng nghe. Năm ấy, ngài đào một cái hố to ở ngoài cửa núi, bảo mọi người: “Các ông đã ăn no, xin chia cho tôi một bát canh, có được không?” Mọi người ưng thuận. Khi đó, ngài Ðạo Hương cũng ăn uống no say, nhờ người dìu đến trước hang ọe hết ra. Những con vật ngài đã ăn vào: Con nào bay được thì bay lên, con nào chạy thì chạy đi, tôm, cá, thủy tộc ói ra ngập cả hố. Mọi người kinh sợ, liền vĩnh viễn kiêng sát sanh. Về sau, ngài Ðạo Hương nghe lời Chí Công liền hóa (Có người đất Thục đến kinh đô yết kiến ngài Chí Công. Chí Công hỏi: “Người xứ nào?” Ðáp: “Tứ Xuyên”. Chí Công bảo: “Ông Hương ở Tứ Xuyên được kính trọng hay coi thường?” Ðáp: “Coi rất thường”. Chí Công bảo: “Bị người coi thường sao chẳng hóa đi”. Người đó trở về núi Thanh Thành, thuật cho Ðạo Hương nghe lời ngài Chí Công. Ngài Ðạo Hương nghe lời ấy xong liền hóa). 

Nên biết rằng những người ẩn kín trong đời, một khi hiển thị thần thông xong sẽ lìa đời tịch diệt để khỏi bị phiền não. Còn không thì phải như ngài Tế Ðiên làm ra vẻ si cuồng, điên dại khiến không ai dò biết được ngài ảo diệu đến đâu, mới yên.

Người học Phật cần phải bỏ cái thấy ta - người, tự lập, lập người. Có vậy mới có thể nói là nhập đạo. Tức là như sách Ðại Học chép: “Cổ chi dục minh minh đức vu thiên hạ giả, tiên trị kỳ quốc. Dục trị kỳ quốc giả, tiên tề kỳ gia. Dục tề kỳ gia, tiên tu kỳ thân. Dục tu kỳ thân giả, tiên chánh kỳ tâm. Dục chánh kỳ tâm, tiên thành kỳ ý. Dục thành kỳ ý giả, tiên trí kỳ tri. Trí tri tại cách vật” (Người xưa muốn làm sáng tỏ đức sáng trong thiên hạ thì trước hết phải giữ yên đất nước. Muốn giữ yên đất nước thì trước hết phải yên định gia đình. Muốn yên định gia đình thì trước hết phải sửa đổi thân mình. Muốn sửa đổi thân mình thì trước hết phải ngay chánh tâm mình. Muốn ngay chánh tâm mình thì trước hết phải giữ cho ý mình chơn thành. Muốn chơn thành ý mình thì trước hết phải đạt đến chỗ hiểu biết. Ðạt đến chỗ hiểu biết nằm ở chỗ trừ khử vật dục). 

Chữ “vật” ở đây chỉ vật dục chẳng phù hợp với thiên lý và tình người. Hễ đã có tư dục ắt tri kiến sẽ thiên tà, chẳng còn công chánh nữa. Lệ như đã yêu vợ, thương con thì dù vợ con có hư đốn cũng chẳng cần biết đến. Do đắm chìm, mê mệt với tư dục nên lương tri sẵn có bị khuất lấp, đến nỗi sự hiểu biết trở thành sai quấy thiên tà, bất chánh

Nếu có thể trừ khử (cách trừ) sạch được tư dục thì vợ con đúng hay sai sẽ thấy ngay lập tức. Bởi thế, một chuyện “cách vật” (trừ khử vật dục) ở đây cần phải giảng thống thiết, chớ có lầm hiểu “cách vật” nghĩa là thông suốt cùng tột lý của mọi sự vật trong thiên hạ. Trừ khử tư dục trong tự tâm mới chính là căn bản của việc “minh Minh Ðức”. Thông đạt tận cùng lý tánh của sự vật trong cõi đời chỉ là chuyện cành phụ, đầu nhánh. Lấy chuyện cành phụ, đầu nhánh làm căn bản trọng yếu thì lạ gì thiên hạ chẳng loạn lạc hết thuốc chữa nổi! 

Phật pháp trừ khử tham, sân, si cũng là “cách vật”. Tu Giới - Ðịnh - Huệ chính là “trí tri”. Vật Tham Sân Si chất chứa trong tự tâm thì cũng như đeo cặp kính màu nhìn mọi vật sẽ chẳng thể thấy được sắc thật của từng vật. Họa hại của vật dục chẳng đáng sợ sao? 

Người niệm Phật cũng đừng nên tự cậy thông minh, trí huệ, mà cần phải vứt bỏ những điều ấy ra tận ngoài biển Ðông. Nếu chẳng vậy sẽ luôn bị chúng làm lầm lạc, tự bị liên lụy. Bởi lẽ, sẽ bị tri kiến ngăn che chẳng thể nhất tâm được, chẳng bằng hạng ngu phu, ngu phụ niệm Phật. Chánh tâm, thành ý được hưởng ích lợi rất lớn. Vì thế, một pháp Niệm Phật tốt nhất là phải học theo những kẻ quê mùa, ngu độn, lấy việc già giặn, chắc thật hành trì làm trọng. 

Tục ngữ bảo: “Thông minh rốt cục bị lầm vì thông minh”, chẳng đáng sợ sao? Như bà vợ của ông Trịnh Bá Thuần, một đệ tử quy y của tôi ở huyện Bảo Sơn, tỉnh Vân Nam. Bà trường trai niệm Phật nhiều năm. Người con trưởng tên Huệ Hồng đã chết hai năm trước. Bà vợ do thương con quá nên uống thuốc độc. Bà trọn không có tướng trạng khổ sở, đoan tọa niệm Phật qua đời. Ðã chết rồi sắc mặt càng sáng nhuận, kinh động cả một phương. Ông Bá Thuần là bậc lão nho đề xướng niệm Phật, ít có người tin, nhưng do cái chết của vợ con ông, mà mười người đã hết tám, chín người tin theo. Phàm đoan tọa niệm Phật qua đời, nếu không bịnh mà thác đã chẳng dễ gì, nhưng do uống thuốc độc mà chết còn hiện được tướng đó, nếu chẳng phải là đã đắc Tam Muội nên chất độc chẳng làm hại được thì làm sao đạt được như vậy? Nhưng uống thuốc độc tự sát là điều Phật pháp cấm đoán, đừng tưởng vậy là hay, cũng đừng khinh thường làm thử, những vị nghe giảng phải dè chừng. 

Ông Tống Dương Kiệt, tự là Thứ Công, hiệu Vô Vi Tử, tham học với Thiên Y Nghĩa Hoài thiền sư, đại ngộ. Sau nhân cư tang mẹ, duyệt Ðại Tạng, hiểu sâu xa sự thù thắng của pháp môn Tịnh Ðộ nên tự hành, dạy người hành. Lâm chung nói kệ rằng: 

Sanh diệc vô khả luyến 

Tử diệc vô khả xả, 

Thái hư không trung chi hồ giả dã, 

Tương thác tựu thác: Tây Phương Cực Lạc 

(Sanh thì cũng chẳng tiếc gì, 

Chết rồi cũng chẳng bỏ đi đâu nào, 

Hư không hư huyễn sá chi, 

Ðem lầm bù lẫn để về Tây Phương)

Ông Dương Kiệt sau khi đại ngộ, quy tâm Tịnh Ðộ, cực lực đề xướng; đến lúc lâm chung nhận biết: Trong chơn tánh thì sanh tử như hoa đốm trong hư không, nhưng do chưa chứng được chơn tánh thì chẳng thể không cầu vãng sanh Tây Phương để chứng được. “Ðem lầm bù lẫn” nghĩa là nếu đã triệt chứng chơn tánh thì bất tất phải cầu sanh Tây Phương chi nữa. Cầu được vãng sanh vẫn còn là lầm lạc, nhưng nếu chưa chứng ngộ chơn tánh thì chẳng thể không cầu vãng sanh Tây Phương cho nên mới nói: “Ðem lầm bù lẫn để về Tây Phương”. Trong tác phẩm Vãng Sanh Tập, cuối truyện ông Tống Dương Kiệt, Liên Trì Ðại Sư đã tán như sau: “Tôi mong những kẻ thông minh tài trí trong thiên hạ đều có thể thành tựu loại lầm lạc này. Ðấy có thể bảo là thực sự đại thông minh mà chẳng bị thông minh làm lầm lạc vậy”. 

Như ông Tô Ðông Pha đời Tống, tuy là hậu thân của Ngũ Tổ Giới Diễn thiền sư, luôn mang một bức tranh Phật A Di Ðà theo bên mình, bảo: “Ðây là công cứ Tây Phương của cả đời ta”. Nhưng đến lúc lâm chung, trưởng lão Duy Lam ở Kính Sơn khuyên nhủ đừng quên Tây Phương, Ðông Pha nói: “Tây Phương tự có, nhưng chẳng thể dốc sức vào đấy được!” Môn nhân Tiền Thế Hùng bảo: “Ðấy chính là chỗ tiên sinh thường hành trì, hãy nên dốc sức”. Ðông Pha đáp: “Hễ dốc sức vào thì đã là sai rồi!” Nói xong liền mất. Ðấy chính là bằng chứng hùng hồn của chuyện bị thông minh gây tự lầm lạc vậy. Mong quý vị tránh khỏi được điều này. 

Pháp môn Tịnh Ðộ khế lý, khế cơ, dùng sức ít mà thành công dễ, như đã căng buồm lại còn thuận nước vì nhờ vào Phật lực. Các tông khác dùng sức nhiều mà thành công khó như con kiến bò lên núi cao vì toàn cậy vào tự lực. Ðẳng Giác Bồ Tát muốn cầu viên mãn Phật Quả còn cần phải cầu sanh Tây Phương, huống hồ là bọn phàm phu chúng ta nghiệp căn thâm trọng, sao còn chẳng chịu dốc sức vào pháp này? Ðấy là bỏ dễ cầu khó, lầm lạc cùng cực thay! 

Nay những dụng cụ giết người trong thế gian mỗi ngày mỗi mới mẻ, mỗi tháng mỗi khác biệt, nào là phi cơ, đại bác, độc khí, tia sáng giết người v.v… Núi, sông chẳng ngăn trở nổi, vật cứng còn chẳng chống chọi được thì cái thân huyết nhục của bọn chúng ta làm sao đương cự nổi? Mạng người như giọt sương buổi sớm, vô thường một khi xảy đến, vạn sự đều thôi. Bởi thế, muốn cầu lìa khổ được vui thì phải nên gấp gáp nỗ lực niệm Phật, cầu Phật gia bị. Lâm chung vãng sanh, một phen đạt lên cõi kia, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển, hoa nở thấy Phật, chứng được Vô Sanh, mới chẳng cô phụ chuyện được nghe pháp này mà tin nhận vậy. Kính mong đại chúng hành trì, đấy là điều tôi rất mong mỏi
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11636)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11962)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11114)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11349)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12066)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12561)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10767)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17984)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11728)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9949)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12352)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15343)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11241)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12097)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15362)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12002)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12406)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11185)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12086)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10617)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12557)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13175)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14841)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12687)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16579)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19667)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13110)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12670)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12266)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11851)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10903)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13525)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11953)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11845)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11636)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12768)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14518)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12614)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13626)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12895)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9876)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18019)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11166)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9082)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12176)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13052)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10311)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12199)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15314)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16611)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12217)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11483)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14272)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19700)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14151)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24608)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10692)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant