Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ngày thứ tám

25 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12926)
Ngày thứ tám

ẤN QUANG ĐẠI SƯ KHAI THỊ
tại pháp hội Hộ Quốc Tức Tai tại Thượng Hải (1936)
(Nguyên tác: Ấn Quang Ðại Sư Hộ Quốc Tức Tai Pháp Ngữ)
(Liên Hương dịch theo bản in của Hoa Tạng Tịnh Tông Học Hội, Ðài Bắc)

Ấn Quang Ðại Sư Pháp Ngữ
(giảng tại pháp hội Hộ Quốc Tức Tai tại Thượng Hải - 1936)


Ngày thứ tám:

Pháp hội viên mãn, giảng Tam Quy, Ngũ Giới và các nghĩa lý trọng yếu dành cho người niệm Phật

Hôm nay là ngày các vị quy y Tam Bảo. Các vị đã quy y thì nên hiểu rõ đạo lý Tam Quy, Ngũ Giới, tôi sẽ trình bày cho quý vị rõ. 

Vì sao quý vị phải quy y Tam Bảo? Tôi thiết nghĩ nói chung là chẳng ngoài việc muốn cầu sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử. Làm thế nào để đạt được mục đích ấy? Tức là phải bắt đầu từ việc quy y, tức là quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Có quy y Tam Bảo, chơn thật tu trì thì mới có thể liễu thoát sanh tử, vãng sanh Tây Phương. Vả Tam Bảo vừa nói đó có hai loại: Tự Tánh Tam BảoTrụ Trì Tam Bảo

* Phật nghĩa là Giác Ngộ. Tự Tánh Phật có sẵn trong tự tâm, nó chính là Chơn Như Phật Tánh ly niệm linh tri vậy. 

* Pháp nghĩa là quỹ phạm (khuôn phép). Tự tâm sẵn có Tự Tánh Pháp, nó chính là khuôn mẫu cao quý: đạo đức, nhân nghĩa vậy. 

* Tăng nghĩa là Thanh Tịnh, Tự Tánh Tăng tự tâm ta sẵn có, chính là tịnh hạnh thanh tịnh vô nhiễm

Ðấy chính là Tự Tánh Tam Bảo

Trụ Trì Tam Bảo: Ðức Phật Thích Ca lúc còn tại thế thì ngài là Phật Bảo, sau khi diệt độ, phàm tất cả các tượng bằng vàng đúc, đất nặn, gỗ chạm, tranh vẽ đều phải nên tôn kính như Phật Bảo

Các pháp ly dục thanh tịnh đã giảng, phàm các kinh điển trong Tam Tạng, mười hai bộ đều là Pháp Bảo

Người xuất gia thọ Cụ Túc Giới, tu trì hạnh thanh tịnh đều là Tăng Bảo

Quy là quay về, gieo vào, như nước đổ vào biển, như lữ khách trở về nhà. Y là nương gởi, như con nương vào mẹ, như vượt biển phải nương nhờ thuyền. Con người giữa biển cả sanh tử nếu chẳng quay về nương nhờ Tự Tánh Tam BảoTrụ Trì Tam Bảo thì không cách gì ra khỏi được sự đại khổ ấy cả. Nếu chịu phát tâm chí thành quy y Tam Bảo, tu hành đúng như pháp thì mới ra khỏi biển khổ sanh tử, liễu sanh thoát tử được. 

Ví như người lỡ chân rớt xuống biển, sóng dữ cuồn cuộn, sợ bị chìm ngập mất đầu. Giữa lúc ngàn cân treo sợi tóc, sanh tử tồn vong ấy, chợt có con thuyền đi đến, liền gắng đuổi theo, trèo lên. Ðấy là nghĩa “quay về, gieo vào” vậy. Do đã biết Tự Tánh Tam Bảo, từ đấy khắc kỷ, tu tỉnh, phấn đấu kịch liệt [với ác nghiệp] thì lại càng phải cầu nơi Trụ Trì Tam Bảomười phương tam thế hết thảy Tam Bảo thì mới có thể tiêu trừ ác nghiệp, tăng trưởng thiện căn, thành tựu được đạo nghiệp ngay trong đời này, vĩnh viễn thoát khỏi sanh tử, luân hồi

Ðiều này cũng giống như được cứu, leo lên thuyền, ngồi yên đến bờ. Ðã thoát hiểm lúc ấy, hiện tại lại mừng được sống sót, bởi đó được vô hạn lợi ích. Ðấy chính là ý nghĩa “nương, gởi” vậy. Ở trong biển cả sanh tử, việc đời rối ren, phiền não muôn mối, chúng sanh cần phải nên lấy Tam Bảo làm thuyền. Ðã được quy y sẽ thúc trống, giương buồm, chẳng lười, chẳng sụt, tự sẽ có thể mau lên bờ kia, vĩnh viễn hưởng an lạc

Ðã quy y Phật nên thờ Phật làm thầy; bắt đầu từ nay cho đến hết đời, kiền thành lễ kính, chẳng chịu lười nhác dẫu chỉ trong một hơi thở, chẳng được quy y thiên ma, ngoại đạo, tà thần. 

Ðã quy y Pháp, nên lấy Pháp làm thầy, bắt đầu từ nay cho đến hết đời, chẳng quy y kinh điển ngoại đạo nữa. 

Quy y Tăng nên lấy Tăng làm thầy, bắt đầu từ nay cho đến hết đời, chẳng còn quy y đồ chúng ngoại đạo nữa. 

Nếu đã quy y Tam Bảo mà còn tín ngưỡng ngoại đạo, tôn phụng tà ma, quỷ thần thì tuy hằng ngày niệm Phật, tu trì, cũng khó lòng được lợi ích chơn thật vì tà chánh chẳng phân, quyết chẳng có hy vọng liễu thoát sanh tử. Ðành rành như thế. Lại cần phải biết rằng: “Quy y” vừa nói đó chính là quy y hết thảy Phật - Pháp - Tăng Tam Bảo, chứ chẳng phải là quy y một cá nhân nào. Chẳng hạn như hôm nay các vị đến quy y, chẳng qua tôi thay mặt cho Tam Bảo truyền chứng Tam Quy, chứ chẳng phải quy y một mình tôi. Tôi thấy Tăng tục vẫn có kẻ hiểu lầm ý nghĩa quy y, người tại gia thì nói tôi quy y vị pháp sư đó, người xuất gia bảo kẻ nọ là đệ tử quy y của tôi. Bỏ cái lớn, lấy cái nhỏ, phế công chọn tư, đáng buồn, đáng than thay! Vì thế tôi bèn nói rõ để quý vị khỏi bị lầm lạc nữa, xin ai nấy chú ý. 

Ðã giảng về ý nghĩa Tam Quy rồi, tôi lại nói đến Ngũ Giới. Ngũ Giới vừa được nói đó, chính là: một là chẳng sát sanh, hai là chẳng trộm cắp, ba là chẳng tà dâm, bốn là chẳng nói dối, năm là chẳng uống rượu. 

* Chẳng sát sanh là vì ta cùng loài vật đều ham sống, sợ chết hệt như nhau. Ta đã ham sống, sao lại giết chúng? Nói, nghĩ thấu suốt đến đó thì lẽ nào lại nỡ lòng giết hại? Bởi lẽ, hết thảy chúng sanh đều cùng ngang hàng, luân hồi trong lục đạo, ai nấy tùy theo nghiệp thiện, ác của chính mình mà hình thể khác xa nhau, thăng, giáng, nổi, chìm, trọn chẳng lúc nào hết. Ta cùng bọn chúng trong nhiều kiếp cũng từng xoay vần làm cha, mẹ, anh ,em, con cái, quyến thuộc. Nghĩ đến đấy lẽ nào còn chịu sát sanh? 

Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, thực chẳng hai, chẳng khác với tam thế chư Phật. Trong đời vị lai, chúng đều có thể thành Phật, chỉ vì sức ác nghiệp túc thế nên Phật Tánh diệu minh bị ngăn chướng, chẳng hiển hiện được, đến nỗi chìm đắm trong dị loại. Lẽ ra, chúng ta phải nên đem lòng thương xót, lòng từ bi, cứu độ chúng, có đâu lại dám tàn hại thân thể chúng để cốt no bụng mình? 

Ðời này, chúng ta được làm người chính là do thiện quả đời trước, phải nên vĩnh viễn giữ gìn thiện quả này khiến nó được phát dương quang đại, duy trì vĩnh cửu, chẳng được sát sanh! Nếu như rộng tạo sát nghiệp ắt sẽ đọa ác đạo, đền trả nợ cũ, xoay vần giết hại nhau, đây chìm, kia khởi, chẳng có khi hết. Muốn tránh khỏi nỗi khổ luân hồi, cầu sanh Tây Phương, sao còn dám tạo đôi chút sát nghiệp? Vì thế, điều đầu tiên phải chú trọng là kiêng giết. 

* Chẳng trộm cắp là thấy của riêng của người khác, nếu chẳng cho thì chẳng dám lấy. Việc này những ai biết chút liêm sỉ sẽ đều chẳng phạm, nhưng mấy ai chưa phải là bậc Thánh Hiền không phạm qua? Bởi lẽ, một phen tư dục nổi lên sẽ dễ bị lung lạc. Nếu thấy mối lợi lớn ở ngay trước mắt mà có thể né tránh như thể gấp tránh rắn, rết, kẻ điên cuồng thì hạng người ấy đã là chẳng dễ thấy rồi. 

Nói “trộm cắp” đó chẳng phải chỉ có nghĩa là trộm cắp tài vật của người mà là ngay trong lúc để tâm làm việc, nếu có những lúc giống như trộm cắp thì cũng chính là trộm cắp vậy. Chẳng hạn, mượn công giúp tư, tổn người lợi mình, cậy thế lấy của, dùng mưu đoạt vật, ganh tỵ sự phú quý của người khác, mong người nghèo cùng đi v.v… đều là trộm cắp cả. 

Lại như làm lành để cầu danh, ngay cả như lúc gặp các thiện sự, tâm chẳng chơn thành khiến cho lắm chuyện lôi thôi. Chẳng hạn như lập trường nghĩa học, nhưng chẳng chọn thầy nghiêm khắc khiến cho con em người khác bị lầm lạc; thí thuốc men mà chẳng phân biệt giả, thật, khiến tính mạng người khác bị hại. Gặp người mắc nạn gấp, dụ dự chẳng gấp cứu, lần chần, dùng dằng đến nỗi lỡ việc. Với hết thảy việc, luôn lằng nhằng, tắc trách, chẳng quan tâm đến lợi hại của người khác, xài phí của công, tổn hại công ích thì thật đều giống như trộm cắp vậy. 

Nếu ai nấy đều có lòng trộm cắp, hay làm việc trộm cắp thì xã hội sẽ hủ bại, loạn lạc, thiên hạ chẳng thể thái bình.Vì vậy, cần phải chú trọng răn dè trộm cắp

* Chẳng tà dâm: Âm dương tương cảm, chúng sanh nhờ đó mà sanh. Vợ chồng kết hôn là mối nhân luân lớn lao. Sanh con đẻ cái, dạy dỗ nên người, trên quan hệ quốc gia, dưới tiếp nối dòng dõi; cho nên chẳng cấm. Nếu chẳng phải chánh phối lại cẩu hợp tư thông liền thành tà dâm. Ðấy là trái nghịch chánh nghĩa, rối loạn nhân luân, sống làm cầm thú đội mũ mặc áo, chết đọa tam đồ ác đạo. Vừa ra khỏi địa ngục, lại làm những loài vật dâm như chim sẻ, bồ câu v.v… Nếu được làm người, hay bị chết yểu, hèn mạt, vợ con dâm tà. Quả báo ấy thật tàn khốc, thật hiển nhiên. Nhưng con người lúc dâm dục phát sanh thường chẳng thể tự chế; vì thế, đức Phật ta coi tội dâm dục là nặng. 

Nếu thực hành Bất Tịnh Quán, quán lâu ngày sẽ thấy sắc đâm chán. Thêm nữa, nếu có thể tưởng hết thảy nữ nhân mình trông thấy đều là mẹ, con gái, chị, em, sanh tâm hiếu thuận, tâm cung kính thì ác niệm dâm dục cũng không do đâu phát sanh được! Ðấy chính là cách đoạn trừ căn bản của luân hồi, sanh tử, là thang bậc để siêu phàm nhập thánh, phải thường kiêng dè

Còn như vợ chồng ân ái cùng nhau vốn chẳng bị cấm đoán, nhưng cũng cần phải “tương kính như tân” (kính trọng nhau như khách), tiết dục, giữ gìn thân thể, ít dục sẽ có nhiều con trai, chẳng được phóng túng vô độ đến nỗi táng thân, không con nối dõi. Hơn nữa, dẫu là vợ chồng với nhau, nếu hoang dâm cũng là phạm giới, chẳng qua nhẹ hơn tội tà dâm một chút thôi! Vì thế, cần phải đặt nặng chuyện giới dâm. 

* Chẳng nói dối là lời lẽ phải đáng tin, chẳng dối trá thốt ra. Nếu thấy nói chẳng thấy, chẳng thấy nói thấy, lấy hư làm thật, lấy có làm không. Phàm hết thảy những chuyện dối trá, quyến rũ, ẩn giấu, bịp bợm, thêu dệt, tâm miệng chẳng xứng nhau, muốn lừa dối người thì đều là “nói dối” cả. 

Lại nếu mình chưa đoạn hoặc mà bảo đã đoạn hoặc, chưa chứng đạo mà bảo đã chứng đạo thì là đại vọng ngữ. Tội ấy rất nặng vì hoại loạn Phật pháp, khiến chúng sanh ngờ vực, lầm lạc, chết đi chắc chắn vào địa ngục, vĩnh viễn không có ngày ra. Vì cần phải chú trọng giới vọng ngữ

Bốn điều kể trên gọi là Tánh Giới vì do thể tánh của chúng mà thành. Chẳng luận là xuất gia hay tại gia, thọ giới hay không, hễ phạm phải đều có tội lỗi. Kẻ chưa thọ giới, căn cứ trên sự mà luận tội. Người đã thọ giới, ngoài việc căn cứ trên sự luận tội ra, còn phàm thêm tội phạm giới. Vì thế, bốn điều sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ này, hết thảy ai cũng chẳng được phạm. Ðã thọ giới mà còn phạm sẽ mắc cả hai trọng tội

* Chẳng uống rượu là vì rượu có thể làm mê loạn nhân tánh, hoại giống trí huệ. Uống vào, rượu làm cho con người điên đảo, hôn cuồng, làm càn những chuyện trái lẽ. Vì thế, hễ là người tu hành tuyệt chẳng cho phép uống. Cần biết rằng: hết thảy vọng niệm, tà hạnh phần nhiều là do uống rượu mà nên nỗi. Vì thế, cần phải chú trọng thêm chuyện giới tửu. Ðây là Già Giới (giới ngăn ngừa). Ðã thọ giới mà uống rượu thì phạm, chưa thọ thì không tội. 

Nhưng nói chung, cứ không uống là tốt. Bởi lẽ, có tội hay không tội là do có thọ giới hay không thọ giới mà thành sai khác, nhưng nó là một trong những cội rễ của các tội lỗi. Còn như uống rượu tạo thành tai họa, đến nỗi bệnh tật, rút ngắn tuổi thọ, chết yểu, không con chẳng cần phải nói nữa! 

Còn về Thập Thiện cũng phải nên giữ gìn cẩn thận. Thập Thiện là chẳng sát sanh, chẳng trộm cắp, chẳng tà dâm; đấy là ba nghiệp của thân. Chẳng nói dối, chẳng nói thêu dệt, chẳng nói đôi chiều, chẳng ác khẩu là bốn nghiệp của miệng. Chẳng keo tham, chẳng nóng giận, chẳng tà kiếnba nghiệp của ý. Nếu giữ được chẳng phạm thì gọi là Thập Thiện. Nếu phạm chẳng giữ thì gọi là Thập Ác

Thập Ác chia ra làm thượng, trung, hạ, chiêu cảm thân trong ba ác đạo: địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Thập Thiện cũng chia thành thượng, trung, hạ, chiêu cảm thân trong ba đường lành: trời, người, a tu la. Nhân lành cảm quả lành, nhân ác cảm quả ác. Tự làm tự chịu, lý đã tất nhiên, quyết chẳng sai sót mảy may

Thập Thiện bao gồm hết thảy thiện pháp. Nếu có thể tuân hành thì không điều ác nào chẳng đoạn, không điều thiện nào chẳng tu. Các vị đã quy y, thọ giới, hãy nên tận lực tuân hành, lại còn phải nhất tâm niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, chẳng được coi thường. Nếu chẳng tận lực hành trì, kịp đến khi lâm chung mới biết là trọng yếu thì nghiệp phong đã thổi, chẳng thể tự chủ, dẫu hối cũng chẳng kịp nữa! 

Người học Phật đã hiểu rõ ý nghĩa Tam Quy, Ngũ Giới, Thập Thiện rồi thì hãy hết sức ngăn tà, giữ lòng thành, gìn giữ nhân luân, trọn hết bổn phận, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành. Ðiều cần phải chú ý nhất là làm bất cứ việc gì, đều phải dựa vào thiên lý lương tâm. Chẳng hạn như làm nghề y mà có thiên lương, cứu người nguy cấp sẽ tích lũy âm công lớn lao. Kẻ không thiên lương thì hoặc là khiến người bệnh nhẹ thành nặng, thừa nước đục thả câu, táng tận lương tâm, quyết định lãnh ác quả

Hiếu liêm Tào Cẩm Ðào ở Tô Châu đời Thanh giỏi y thuật, bất cứ bệnh ngặt nghèo nào, gặp tay ông đều khỏi. Một bữa, ngay lúc ông sắp ra khỏi cửa, có một người đàn bà nghèo quỳ ngoài cửa, khóc lóc xin ông chữa bệnh cho mẹ chồng, than: “Gia đạo bần hàn, khó lòng mời thầy thuốc khác được, nghe ngài sẵn lòng từ bi, nhất định sẽ đoái hoài đến trị”. Ông Tào liền đến trị. 

Ðến lúc ông ra về, dưới gối mẹ chồng người đàn bà nghèo có năm lạng bạc trắng, chẳng biết đi đâu mất, tưởng ông Tào lấy đi, bèn đến nhà hỏi. Ông Tào bèn cứ đúng số trao cho. Ðến khi bà về đến nhà, mẹ chồng đã tìm lại được bạc. Người đàn bà thẹn hổ vô cùng, lại đem bạc đến trả lại, tạ tội, hỏi ông: “Sao ngài lại tự vu mình có trộm bạc?” Ông Tào bảo: “Tôi chỉ muốn mẹ chồng bà chóng khỏi thôi! Nếu tôi chẳng nhận, mẹ chồng bà sẽ lo buồn bịnh thêm hoặc khó trị hơn! Vì thế, tôi chỉ muốn mẹ chồng bà lành bịnh, chẳng sợ người ta bảo tôi trộm bạc”. Tấm lòng ông trung hậu, có thể nói là không ai hơn nổi. 

Bởi thế, ông sanh được ba người con: Con trưởng làm ngự y, thọ hơn tám mươi tuổi, cửa nhà đại phú; con thứ bổ chức Hàn Lâm, làm quan đến chức Phiên Ðài; con thứ ba cũng làm Hàn Lâm, bác thông kinh sử, chuyên chí trứ thuật. Cháu chắt đông đảo, nhiều người hiển đạt. Còn những kẻ chỉ mưu kiếm lợi bằng nghề y, tôi chẳng cần phải nói đến, ai có mắt đều thấy cả. 

Kinh Dịch chép: “Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh. Tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương” (Nhà tích thiện, niềm vui có thừa; nhà tích ác, ương họa có thừa), ý nói: dư khánh, dư ương báo ứng vào con cháu. Còn bổn khánh, bổn ương vận vào chính thân mình. Dư khánh, dư ương người khác thấy được, còn bổn khánh, bổn ương sẽ hoặc là phải chịu ngay trong đời này hay phải lãnh thọ trong thân sau, người đời chẳng thấy hết được. Thiên, địa, quỷ thần, Phật, Bồ Tát đều thấy hay từng sự rõ ràng. Phải biết là bổn khánh, bổn ương so với dư khánh, dư ương lớn gấp cả mười, trăm, ngàn, vạn lần. Vì thế, xin người đời hãy nỗ lực tu trì, để được sự vui, trừ ương họa vậy. 

Ông Tào cam chịu tiếng “trộm cắp” để cứu tánh mạng người khác, thiện báo ứng vào con cháu. Nếu ông có thể niệm Phật, cầu thoát tam giới, lại dạy con cháu ăn chay, niệm Phật thì thiện báo sẽ là Tây Phương, phước lại càng lớn. 

Các vị đã quy y thì phải nên cung kính thọ Tam Quy, lấy việc liễu thoát sanh tử làm gốc, trì Ngũ Giới cẩn thận để làm nền tảng cho việc đoạn ác, tu thiện. Phụng hành Thập Thiện để làm gốc cho việc thanh tịnh ba nghiệp Thân, Khẩu, Ý. Bởi đó, các ác đều trừ, tận lực làm các điều lành, tam nghiệp đã tịnh, lại còn tuân tu đạo phẩm, liễu sanh thoát tử, được dự vào Liên Trì thắng hội

Cần biết rằng: Thiện - ác nhân - quả như bóng theo hình, chẳng lầm một mảy. Thật sự làm vậy sẽ được lợi ích thật sự. Nếu mua danh hám tiếng, thích nói điêu ngoa, lừa mình, dối người, tự bảo đã đắc Phật đạo thì là đại vọng ngữ, ắt sẽ thọ ác báo. Nói chung, người tu hành tâm địa cần phải quang minh, ba nghiệp thanh tịnh, công đức tự được vô lượng. Quán kinh dạy: “Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp là chánh nhân tịnh nghiệp của tam thế chư Phật” thật là thiết yếu chớ quên. Buông dao đồ tể, lập địa thành Phật, đã có người làm được như thế. Xin ai nấy hãy gắng lên. 

(Bửu Quang tự đệ tử Liên Hương dịch xong ngày 29 tháng 04 năm 2003)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12423)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 13979)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10742)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10408)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11075)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11871)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13045)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13528)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33515)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11253)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12825)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 12959)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11527)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17773)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11321)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11750)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11406)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18872)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12462)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11218)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13061)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15626)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11732)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11612)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12633)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12548)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13863)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12889)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12835)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13203)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12654)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12610)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11667)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11654)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12234)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12254)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19692)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11878)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11907)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16734)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12574)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 14948)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 15985)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12766)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12141)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11805)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11843)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13048)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16421)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13146)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12391)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11733)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19737)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11071)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11182)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10316)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11015)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10885)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 9952)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11659)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant