Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 6

11 Tháng Mười 201000:00(Xem: 11017)
Chương 6

CHƯƠNG 6
BỐN ĐIỀU KHIẾN CHO BỒ TÁT
ĐẠT ĐƯỢC ĐẠI TRÍ HUỆ 

 

6. Bốn Điều Khiến Cho Bồ Tát Đạt Được Đại Trí Huệ

“Hỡi này, Ca Diếp, có bốn điều khiến cho một bậc Bồ Tát đạt được Đại Trí Huệ. Bốn điều ấy là gì?

 1. Luôn luôn tôn kính Phật Pháp và tôn thờ những vị Pháp sư;

 2. Thuyết giảng khắp nơi bất cứ pháp môn nào của Phật Pháp mà mình đã học được, thuyết giảng rộng rãi với cái lòng trong sạch, không dơ bẩndanh thơm tiếng tốt hoặc vì lợi lộc tiền tài;

 3. Phải biết rằng trí huệ phát khởi từ sự siêng học Phật Pháp càng nhiều càng tốt, và siêng năng học Phật Pháp với sự cố gắng nỗ lực khẩn cấp liên tục giống như giải cứu cái đầu mình khỏi bị lửa cháy sém;

 4. Phải tụng đọc những kinh Phật mà mình đã học được, và thực hành những điều mình đã học một cách vui sướng bất tận mà không bị vướng kẹt chằng chịt bởi ngôn từ, ngôn thuyết”.

“Tôn trọng Phật Pháp” cũng có nghĩa đồng thời là “cung kính những bậc Thầy giảng dạy Phật Pháp”. Có người thích nói rằng: “Tôi chỉ nghe Pháp, chứ không theo Sư” lời nói này chỉ nói lên tính ngạo mạn của người đời và chỉ làm phương hại đến lòng cầu đạo của bản thân thôi. Biết nhìn tất cả Pháp sư với đôi mắt trong sạch, với tâm thanh tịnh, là đã nhập đạo rồi. Đại Trí Huệ của Bồ Tát bắt đầu phát khởi từ tất cả tấm lòng sùng kính thiết tha trọn vẹn đối với Tam Bảo, đối với Phật, Pháp và Tăng. Mỗi một vị tăng vô danh và khiêm tốn nhất đều là Pháp sư của mình, nếu mình nhìn thấy được sự liên tục thiêng liêng của truyền thống đạo pháp từ trên 2.500 năm trôi qua sau biết bao nhiêu đảo điên dâu bể bi đát của lịch sử loài người.

Điều thứ hai để được Đại Trí Huệ của Bồ Tát là rao truyền rộng rãi Chánh Pháp với tất cả tâm thanh tịnh trong sáng, “không cầu tất cả danh văn và lợi dưỡng”, nghĩa là không bị trói buộc vào tám pháp thế gianĐức Phật đã giảng trong kinh Phúng Tụng (Sangiti sutta).

Tám pháp thế gian (loka-dhamma) là:

1. Được; chữ Hán: đắc (chữ Phạn: lābhah)

2. Mất; bất đắc (alābhah)

3. Danh tiếng; danh văn (yasah)

4. Tủi nhục/tiếng xấu; ác văn (ayasah)

5. Chê; phỉ báng (nindā)

6. Khen; tán thán (prasamsa)

7. Sướng; lạc (sukham)

8. Cực; khổ (duhkham)

Trong kinh Chúng Tập thuộc bộ Kinh Trường A Hàm, cách dịch chữ Hán bản xưa cũng đồng nghĩa như trên:

1. Thay vì đắc thì gọi là lợi

2. Thay vì bất đắc thì gọi là suy

3. Thay vì danh văn thì gọi là dự

4. Thay vì ác văn thì gọi là hủy

5. Thay vì phỉ báng thì gọi là

6. Thay vì tán thán thì gọi là xưng

7. Cũng gọi là lạc

8. Cũng gọi là khổ

Thuyết giảng Phật Pháp, dù có được thành công hay thất bại (đắc hay bất đắc), dù có lợi lộc hay chẳng được lợi lộc tài sản gì cả (lợi hay suy), dù có được tiếng tốt hay tiếng xấu đi nữa (danh văn hay ác văn, dự hay hủy), dù bị phỉ báng chê cười hay được khen ngợi ca tụng (phỉ báng hay tán thán, cơ hay xưng), dù được sướng hay cực khổ bực mình đi nữa (lạc hay khổ), dù ở bất cứ hoàn cảnh tốt hay xấu nào đi nữa, Bồ Tát vẫn thuyết giảng rộng rãi Phật Pháp khắp nơi, tâm trạng của Bồ Tát lúc nào cũng cảm thấy yên ổn và không bị lay động bởi tám thế pháp hay tám cơn gió độc. Điều quan trọng khiến cho Bồ Tát đạt được Đại Trí Huệ vẫn là giữ được tấm lòng trong veo trắng bạch như bầu trời không gợn một bóng mây xưa.

Điều thứ ba là siêng học Phật Pháp: Bồ Tát phải được đa văn; đừng bao giờ lầm tưởng rằng mình có thể trở thành Bồ Tát mà chẳng cần học hành gì cả; đừng bao giờ tưởng rằng mình có thể hoắc nhiên đốn ngộ mà chẳng cần tụng đọc kinh Phật !

Ngay cả Lục Tổ Huệ Năng, dù không biết đọc chữ Tàu, nhưng vẫn nghe rất nhiều kinh Phật, trong Pháp Bảo Đàn Kinh có trích dẫn rất nhiều kinh điển quan trọng của Phật Pháp. Hiện nay ở Việt Nam và ở những cộng đồng Việt Nam tại khắp thế giới thường có phong trào tu thiền mà chẳng cần đọc tụng kinh luận Phật Giáo, đây là một điều sai lầm nên nêu ra thường xuyên để cảnh cáo những kẻ phá hoại Phật Pháp. Không phải chỉ cần đọc bài ba quyển về thiền học của D.T.Suzuki là có thể tự nhận là thiền sư hay thiền giả. Người ngồi tham thiền suốt cả ngày lẫn đêm mà không chịu niệm Phật A Di Đà, không chịu tụng đọc kinh luận Phật giáo thì chắc chắn chỉ thực hành tà đạo và trở nên cuồng thiền rất nhanh như chớp. Trước khi cuồng vọng đốt bỏ Kinh Kim Cang thì cũng nên thiêu đốt cái bản ngã của mình đi. Đừng bao giờ bắt chước ngôn ngữ dị thường của những bậc Thiền sư Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn hay Việt Nam. Chúng ta chỉ là những con sâu cái kiến và chỉ nên cố gắng bò thật chậm rãi trên những trang kinh cổ kính... Nếu kiếp này chưa đốn ngộ, chưa được là Bồ Tát, chưa thành Phật, vậy kiếp sau xin nguyện đầu thai làm chú tiểu quét lá sân chùa, như thế còn có ý nghĩa thơ mộng hơn là kiêu mạn phá hoại lòng tin trong sáng của bao nhiêu Phật tử hiền lành.

“Siêng năng tu học Phật Pháp với sự cố gắng nỗ lực khẩn cấp liên tục, giống như giải cứu cái đầu mình khỏi bị lửa cháy sém”, lời dạy này của Đức Phật cần được ghi tạc bằng vàng ngọc trong tất cả thiền viện, tu viện và chùa chiền Việt Nam.

Điều thứ tư là đọc tụng kinh Phật một cách sung sướng hoan lạcthực hành tất cả lời Phật dạy trong đời sống thường nhật và đừng để tâm trí kẹt vào ngôn thuyết. “Như thuyết thực hành” mà chẳng chấp vào ngôn thuyết, chẳng đeo níu vào ý nghĩa thông thường của ngôn ngữ mà phải nắm lấy cái tinh túy sáng rực vượt ra ngoài tất cả ý nghĩa quen thuộc của ngôn từ: học cách phá vỡ tất cả ý nghĩa hữu hạn của ngôn thuyếtthể nhập vào tận bên trong vô lượng nghĩa của từng chữ xuất hiện trong bất cứ kinh luận Phật Pháp nào mà mình đang trì tụng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22248)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15997)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15013)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18919)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14430)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18611)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14397)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13560)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13538)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11804)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13220)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13641)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13918)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13239)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15012)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16146)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11074)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16435)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11882)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17575)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12864)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13687)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12837)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14839)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16367)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13117)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12069)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12739)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12874)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12754)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14149)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14091)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16445)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12366)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14371)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11289)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11012)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13177)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13877)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13145)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12986)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13480)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12706)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10221)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13951)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10209)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13677)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16246)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11945)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12955)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11625)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12649)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10776)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10969)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10923)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11863)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12727)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11044)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12599)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11295)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant