Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 9

11 Tháng Mười 201000:00(Xem: 10365)
Chương 9

CHƯƠNG 9
HAI MƯƠI BỐN ĐIỀU KHIẾN CHO BỒ TÁT
ĐÁNH MẤT BỒ ĐỀ TÂM 

 

9. Hai mươi bốn điều khiến cho Bồ Tát đánh mất Bồ Đề Tâm.

Phần mở đầu kinh Phổ Minh Bồ Tát Hội chính là phần quan trọng nhất, tất cả diệu nghĩa phong phú của Phật Pháp đã được Đức Phật giảng dạy một cách cô đọng súc tích trong tám điều tích cực và tám điều tiêu cựcliên hệ đến trí huệđại trí huệ của Bồ Tát, và Đại Trí Huệ của Bồ Tát chính là Lòng Bồ Đề, tức là Bồ Đề Tâm. Điều quan trọng nhất ở đây là tôn kính Phật Pháptôn trọng Pháp sư. Lòng tôn trọng Phật Phápkính trọng Sư Trưởng đã được thực hiện cụ thể qua sự thực hành tu chứng Bồ Đề Tâm cho đến khi Giác Ngộ viên mãn, cho đến lúc ngồi đạo tràng, ngộ nhận Bồ Đề vô thượng.

Phần kế tiếp ở kinh Phổ Minh là khai triển đủ mọi dạng thái tích cựctiêu cực của việc tăng trưởng chứng nhập Bồ Đề Tâm và việc đánh mất Bồ Đề Tâm, rồi đúc kết lại những điều thành tựu của một bậc Bồ Tát, xứng danh với danh hiệu Bồ Tát.

Để giữ tính cách liên tục của những đề tài đề cập trong kinh có liên hệ trực tiếp với việc đánh mất Bồ Đề Tâm và với việc tăng trưởng chứng nhập Bồ Đề Tâm, chúng tôi xin liệt kê tất cả đề tài (theo hình thức bốn điều) cùng chung lại với nhau cho dễ nhớ, nội dung tích cực theo loại tích cực (gồm có 40 điều) và nội dung tiêu cực theo loại tiêu cực (gồm có 24 điều). Lúc trì tụng, mình cần theo thứ tự quen thuộc, tách rời một đoạn kinh, chú tâm vào 4 vế cho kinh kệ dễ nhập, dễ huân tập vào thần trí. Nhưng khi tu học, mình cần nhập chung tất cả đề tài tích cực (pháp lành) vào một nhóm, và tất cả đề tài tiêu cực (pháp xấu) vào một nhóm khác để dễ có một cái nhìn nhất lãm, một cái nhìn tổng quan về những pháp môn đa dạng của Phật Pháp.

Căn cứ vào lời Đức Phật dạy Trưởng Lão Ma Ha Ca Diếp, xin liệt kê 24 điều khiến cho Bồ Tát đánh mất Bồ Đề Tâm:

1. Đọc tụng, nghiên cứu kinh điển thế tục, vì do lòng kiêu mạn;

2. Đi đến nhà người cúng dường với cái lòng ham muốn thèm khát tiền bạc, lợi lộc vật chất;

3. Phẫn hận thù ghét phỉ báng những vị Bồ Tát khác;

4. Chẳng tin và nói nghịch lại với những kinh Phật mà mình chưa được nghe lần nào.

Bốn điều này làm những pháp lành của Bồ Tát bị giảm kém đi, chẳng những chẳng được tăng trưởng mà lại phải bị mất hẳn đi.

5. Ôm giữ mối nghi ngờ đối với Phật Pháphối tiếc vì đã chấp nhận Phật Pháp;

6. Phẫn hận thù ghét và kiêu mạn đối với chúng sinh;

7. Đố kỵ, ghen tỵ với những kẻ khác, vì họ được thành công lừng lẫy, giàu sang, sung sướng, vẻ vang, hạnh phúc;

8. Mạt sát nói xấu những Bồ Tát khác và mạ lỵ họ khắp nơi.

Bốn điều ở trên này là những điều thuộc tâm siểm khúc mà một bậc Bồ Tát cần phải tránh xa, lìa bỏ dứt khoát.

9. Sau khi đọc tụng Kinh Phật, một Bồ Tát hư họng bại hoại là kẻ chỉ trích chơi chữ, thích hý luận, thay vì thực hành, tu hành đúng theo Phật Pháp;

10. Không vâng lời, tôn trọng và làm vui lòng những vị Sư Trưởng;

11. Phí tổn sự cúng dường của tín đồ, vẫn nhận của tín thí, dù mình đã phá giới;

12. Khinh thường và không kính phục những bậc Bồ Tát có đầy đủ giới hạnh thanh tịnh.

Bốn điều kể ở trên là bốn cái dấu hiệu tướng trạng tự nói lên sự bại hoại hư nát của Bồ Tát.

13. Đồng ý, đồng lõa, đồng dạ với một người không đáng tin cậy;

14. Giảng dạy một pháp môn tu hành sâu thẳm cho một kẻ không đủ sức lãnh nhận;

15. Ca tụng Tiểu Thừa giữa những kẻ vui sướng tu hành theo Đại Thừa;

16. Chỉ bố thí cho những bậc chân tu giữ giới hạnh hoàn toàn mà không chịu bố thí cho những người hung dữ.

Bốn điều trên là bốn điều sai lầm mà một bậc Bồ Tát dễ vướng mắc.

17. Thanh văn không thể là thiện tri thức (người bạn tốt) và một người bạn đường tốt (thiện đẳng lữ) cho một vị Bồ Tát, vì Thanh văn (sravaka) chỉ muốn tự lợi cho cá nhân thôi;

18. Kẻ cầu Duyên Giác (Pratyekabuddha) cũng không thể là người bạn tốt, cũng chẳng phải kẻ đồng hành với một vị Bồ Tát, vì họ chỉ thích hưởng thụ chăm lo chút ít việc nhẹ thôi;

19. Những học giả thế tục cũng không thể là bạn tốt và bạn đồng hành với Bồ Tát, vì họ chỉ lo nghiên cứu thư điển ngoại đạo và khoái sướng với hư văn mỹ lệ, với văn từ nghiêm sức điểm trang;

20. Cũng không phải là thiện tri thức và thiện đẳng lữ với vị Bồ Tát, bất cứ những kẻ thân cận nào chỉ lo tăng trưởng những lợi lộc tài sản thế tục, thay vì thâu đắc Phật Pháp.

Bốn điều trên là bốn hạng người “phi thiện tri thức”, “phi thiện đẳng lữ” đối với một vị Bồ Tát.

21. Hạng người có vẻ giống như Bồ Tát mà không phải thực là Bồ Tát: đó là hạng người chỉ thèm khát tài sản lợi lộc vật chất, ham cầu lợi dưỡng mà chẳng tìm cầu Phật Pháp;

22. Cũng như trên, hạng người ham muốn nổi danh, nổi tiếng vang dậy, mà chẳng ham cầu những đức hạnh, phước đức;

23. Cũng thế, hạng người chỉ thích tìm kiếm hạnh phúc riêng cho mình, thay vì chỉ đường cho chúng sinh tu hành để tiêu diệt khổ đau;

24. Cũng như trên, hạng người chỉ thích sướng sum vầy với rất nhiều đệ tử (tụ họp đồ chúng), và chán ghét sống viễn ly, sống tách biệt một mình trong tịch lặng.

Bốn hạng người trên là hạng người có vẻ tương tợ như bậc Bồ Tátthực ra là “phi Bồ Tát”, chẳng phải Bồ Tát gì cả.

Tất cả những điều trên là hai mươi bốn điều làm cho Bồ Tát đánh mất Bồ Đề Tâm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22060)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15912)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 14931)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18784)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14348)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18497)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14299)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13453)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13443)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11723)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13159)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13568)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13838)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13154)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 14918)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16067)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 10988)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16321)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11778)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17474)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12796)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13587)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12789)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14777)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16251)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13027)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12000)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12661)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12790)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12693)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14032)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14024)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16355)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12293)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14290)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11184)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 10935)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13123)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13800)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13067)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12905)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13412)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12603)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10127)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13819)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10137)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13597)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16166)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11874)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12875)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11558)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12581)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10699)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10892)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10862)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11807)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12659)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 10982)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12522)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11232)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant