Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Bốn Mươi Hai Chương

28 Tháng Tư 201100:00(Xem: 19457)
Kinh Bốn Mươi Hai Chương

KINH TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG

(KINH BỐN MƯƠI HAI CHƯƠNG
Ðời Hậu-Hán, Ngài Ca-Diếp Ma-Ðằng và Ngài Trúc Pháp-Lan dịch chữ Phạn ra chữ Hán
Thích Thanh Cát dịch chữ Hán ra chữ Việt

Phần duyên khởi

Sau khi Ðức Thế Tôn thành đạo, Ngài tự nghĩ : “Xa lìa mọi ham muốn, tâm được yên vui bình tĩnh. Tâm yên vui bình tĩnh là điều cao quý nhất. Chính Tâm ấy mới ở trong Ðại-định để hàng phục mọi ma chướng.”

Suy nghĩ xong, Ðức Phật đến vườn Lộc-Giả nói pháp Tứ-đế, độ anh em ông Kiều Trần Như, năm người đều chứng đạo quả. Tiếp đó có vị Tỳ-khưu lại muốn hỏi những điều còn nghi ngờ, xin Phật chỉ bảo cho các điều phải trái. Vì vậy, Ðức Thế-Tôn lại cặn kẽ dạy bảo khiến các vị Tỳ-khưu, ai nấy đều lĩnh hiểu rành mạch, và chắp tay kính cẩn đón nghe những lời Phật dạy.

I. Chứng quả xuất thế gian

Chương một

Ðức Phật dạy: Từ biệt người thân yêu, xuất gia tu đạo, biết tường tận tâm tính, hiểu thấu vô vi, gọi là Sa-môn. Thường giữ gìn 250 giới cấm, trong sạch, chăm làm các điều thiện, bỏ các sự ác, tu bốn đạo hạnh chân-chính, thành quả vị A-La-Hán. Ngôi nầy sống lâu mãi mãi, có thần thông biến hóa, đi bay đến nơi nào thì trời đất nơi ấy phải rung động.

Sau đến ngôi A-Na-Hàm, ngôi nầy khi hết tuổi thọ thế gian thì thần thức sẽ sinh lên cõi trời thứ 19 để dự vào ngôi A-La-Hán.

Sau đến ngôi Tư-Ðà-Hàm, ngôi nầy phải còn một lần sinh lên trời, một lần xuống nhân gian nữa, mới được lên ngôi A-La-Hán.

Sau hết là Tu-Ðà-Hoàn, ngôi này phải trải qua chín lần tử, chín lần sinh nữa mới được đến quả vị A-La-Hán.

Người đã đoạn tuyệt ái dục, không còn chạy theo ái dục, cũng như người đã chặt đứt chân tay, thì không còn dùng được tay chân ấy nữa.

II. Tu hạnh xuất gia

Chương hai

Phật dạy: Người xuất gia tu đạo, phải đọan bỏ ái dục, biết nguồn gốc tâm tính, hiểu nghĩa lý sâu xa và liễu-ngộ phép vô-vi của Phật.
Trong tâm không thấy phép gì để được, ngoài cảnh không còn môn gì để cầu. Tâm không cố chấp vào đạo, cũng không kết buộc thêm nghiệp. Không phải nhớ, không làm, không tu, không chứng, không phải trải qua các ngôi thứ, mà ngôi thứ độc-tôn ấy chính là đạo.

Chương ba

Phật dạy: Người cạo bỏ râu tóc, vào hàng Sa-môn, học đạo của ta, phải lìa bỏ của cải thế gian, chỉ cốt sao cho tạm đủ. Mỗi ngày mỗi bữa ăn giữa trưa, một giấc ngủ dưới gốc cây, không nên ăn, ngủ hai lần một ngày đêm.
Người bị mê lầm trụy lạc, đều do tâm yêu (ái) muốn (dục) sinh ra vậy.

Chương bốn

Phật dạy: Chúng sinh lấy mười điều là thiện, cũng lấy mười điều là ác. Ba điều về thân, bốn điều về miệng, ba điều về ý.
Ba điều về thân là: Giết hại, trộm cắp, dâm dục. Bốn điều về miệng là : Nói lưỡi đôi chiều, nói lời độc ác, nói thêu dệt, nói dối càn. Ba điều về ý là : Tham lam, giận tức, si mê.
Mười điều ấy thuận với chính-đạo, nói chung là mười điều thiện, trái lạimười điều ác.

Chương năm
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều. 
Nếu người có lỗi tự giác-ngộ, đổi ác làm lành, tội sẽ tiêu mòn. Ví như người đau ốm được ra mồ hôi, bệnh tật sẽ dần khỏi vậy.

Chương sáu
Phật dạy: Kẻ ác tâm, khi nghe thấy người ta làm điều thiện, hay sinh phá quấy. Nhưng các ông phải nín nhịn, đừng giận tức, trách mắng họ.
Kẻ trồng nhân xấu, sẽ tự hái quả xấu.

Chương bảy
Phật dạy: Kẻ xấu, nghe người ta tu đạo, làm những việc nhân từ. Họ cố đến mắng ta, ta im lặng, không nói lại một lời. Khi mắng xong, ta hỏi họ rằng : “Ngươi đem lễ vật biếu người khác, họ không nhận, lễ vật ấy có trả lại ngươi không ?” Kẻ xấu kia đáp: “Lễ vật đó về tôi vậy.”
Phật lại bảo: “Nay ngươi đến mắng ta, ta không nghe, lời mắng ấy lại trả lại ngươi và ngươi tự dìu lấy tội lỗi: nhân nào, quả ấy, như vang theo tiếng, như bóng theo hình, không thể tránh được. Vậy đừng nên làm điều ác.”

Chương tám
Phật dạy : Kẻ ác hại người hiền, cũng như ngửa mặt nhổ bọt lên trời. Bọt chẳng tới trời, trái lại bọt rơi mặt mình. Hay như tung bụi ngược gió, bụi không tới người bị tung, trái lại bụi trở lại tạt vào mình.
Kẻ ác hại người hiền cũng thế, người hiền không bị hại, mà chính kẻ ác tự hại mình trước.

III. Lập tín nguyện

Chương chín
Phật dạy : Kẻ học rộng biết nhiều, nhưng hiểu và tin đạo một cách nông cạn, không thể lãnh ngộ được ý đạo. Trái lại người biết giữ bền tâm chí, phụng sự đạo một cách chắc chắn, thì lý đạo mới hiểu sâu xa vậy.

IV. Tu lục-độ hạnh

1. Bố-thí độ

Chương mười
Phật dạy: Thấy người ta truyền bá đạo, mình giúp thêm hoan hỷ, sẽ được phúc rất nhiều.
Một vị sa môn hỏi Phật: “Phúc đem chia người khác có hết không?” Phật đáp: “Ví như bó đuốc cháy, hàng trăm, ngàn người cầm đuốc đến, châm lấy lửa đem về nấu thức ăn và đốt đèn sáng, mà lửa ở bó đuốc cháy đầu tiên kia vẫn còn nguyên. Vậy ông nên hiểu, phúc cũng như thế.”

Chương mười một
Phật dạy: Cho 100 người ác ăn, không bằng cho một người thiện ăn. Cho 100 người thiện ăn không bằng cho một người trì năm giới ăn. Cho một vạn người trì năm giới ăn, không bằng cúng dường một vị Tu-Ðà-Hoàn. Cúng dường một trăm vạn vị Tu-Ðà-Hoàn, không bằng cúng dường một vị Tư-Ðà-Hàm. Cúng dường một ngàn vạn vị Tư-Ðà-Hàm, không bằng cúng dường một vị A-Na-Hàm. Cúng dường mười vạn vị A-Na-Hàm, không bằng cúng dường một vị A-La-Hán. Cúng dường một triệu vị A-La-Hán, không bằng cúng dường một vị Bích-Chi Phật. Cúng dường mười triệu vị Bích-Chi Phật, không bằng cúng dường một Ðức Phật trong ba đời. Cúng dường một trăm triệu Ðức Phật, không bằng cúng dường một vị vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng.

Chương mười hai
Phật dạy: Người ta có 20 điều khó làm:
Nghèo khổ biết bố thí là khó.
Giàu sang biết học đạo là khó.
Bỏ mình vì lẽ phải là khó.
Thấy được kinh Phật là khó.
Sanh nhằm đời có Phật là khó.
Nhịn sắc nhịn dục là khó.
Thấy thứ tốt không ham cầu là khó.
Bị nhục không giận tức là khó.
thế lực không ỷ là khó.
Gặp việc vô tâm là khó.
Học rộng nghiên cứu nhiều là khó.
Trừ diệt ngã mạn là khó.
Chẳng khinh người chưa học là khó.
Thực hành tâm bình đẳng là khó.
Chẳng nói sự phải quấy là khó.
Gặp được Thiện Tri Thức là khó.
Thấy tánh học đạo là khó.
Tùy duyên hóa độ người là khó.
Thấy cảnh không động tâm là khó.
Khéo biết phương tiện là khó.

2. Trì giới độ

Chương mười ba
Một vị Sa-môn hỏi Phật : “Bạch Thế-tôn, nhờ nhân duyên gì biết được đời trước ?”
Ðức Phật dạy : “Tâm thanh tịnh, giữ bền chí, thì tâm lãnh-hội được đạo nhiệm mầu. Ví như lau bụi mặt gương. Bụi hết mặt gương sáng tỏ hiện ra.
Người học đạo cũng vậy, nếu đoạn trừ hết ái-dục, thì sẽ biết được đời trước.”

Chương mười bốn
Một vị Sa-môn hỏi Phật : “Bạch Thế-tôn : thế nào là (thiện) hay nhất và lớn nhất (đại) ?”
Phật dạy : “Hành đạo giữ tâm chân chính là hay nhất. Chí khí cùng đạo hoà hợp là lớn nhất.”

3. Nhẫn nhục độ

Chương mười lăm
Một vị Sa-môn hỏi Phật : “Bạch Thế-tôn, cái gì mạnh nhất, cái gì sáng nhất ?”
Phật dạy : “Tu hạnh nhẫn nhục mạnh nhất, vì tâm không chứa chấp điều ác, nên thân thể được nhẹ nhàng, khỏe mạnh, và được mọi người tôn trọng. Tâm xấu diệt hết, chút bụi phiền não không còn, gọi là sáng nhất.
Vả lại, sáng nhất có nghĩa là đã được trí hiểu biết hết thảy, cho nên, vạn vật trong mười phương, kể từ khi chưa có trời, đất cho đến ngày nay, đều trông thấy, nghe thấy và hiểu biết khắp tất cả vậy.”

4. Thiền-định độ

Chương mười sáu
Phật dạy : Người ôm ấp tâm ái dục, không thể thấy được đạo, ví như nước đã lắng trong, lại cho tay quấy đục lên. Tuy mọi người đến soi mặt mình, nhưng không thể thấy bóng mình hiện trong đó nữa.
Người tu đạo cũng thế, nếu còn ham mê ái dục thì trong lòng vẫn còn vẩn đục, nên không thấy được đạo chân chính. Các ông là Sa-môn, phải gấp đoạn trừ ngay ái dục. Khi ái dục hết, đạo mới khả dĩ lĩnh ngộ được.

5. Bát-nhã độ

5.1. Trí căn-bản

Chương mười bảy
Phật dạy : Người học đạo thấy rõ đạo, cũng như người cầm đuốc vào trong nhà tối. Bóng tối hết chỉ có ánh sáng còn lại.
Người học đạo, hiểu rõ đạo tức là Vọng-tâm mê mờ hết, chỉ còn toàn ánh sáng Chân-tâm thường trụ.

5.2. Trí hậu đắc

Chương mười tám
Phật dạy : Người học đạo pháp của ta, nhớ mà không chấp nhớ mới gọi là nhớ. Làm mà không chấp làm mới gọi là làm. Nói mà không chấp nói mới gọi là nói. Tu mà không chấp tu mới gọi là tu. Người khéo lĩnh hội thì được gần đạo. Kẻ mê mờ thì cách xa đạo.
Cái đạo lớn không thể lấy lời nói để bàn luận nổi, và cũng không bị vật nào câu thúc được. Nếu có một mảy may sai lầm, thì chỉ bằng nháy mắt (tích tắc) sẽ mất hết.

5.3. Gia-hành trí

a. Quán vô thường

Chương mười chín
Phật dạy : Quán sát trời đất là vô thường, quán sát thế giớivô thường. Quán sát tâm linh giác là Bồ-đề.
Hiểu như thế thời đắc đạo rất chóng vậy.

b. Quán vô ngã như huyễn

Chương hai mươi
Phật dạy : Quán sát bốn đại trong thân nầy, mỗi cái có tên riêng, không có cái nào đáng gọi là ta cả.
Cái ta đã không có, thì thân nầy cũng là giả dối.

c. Thông quán ngũ dục

Chương hai mươi mốt
Phật dạy : Người tùy theo thế tình, tham cầu danh vọng. Khi được công danh hiển đạt, thì thân thể đã già yếu. Kẻ tham danh lợi ở đời không biết học đạo, chỉ uổng công nhọc xác.
Ví như cây hương đốt, khi được người ta ngửi thấy mùi thơm, thì thân hương đã hóa thành tro bụi, vì lửa luôn đốt cháy liền thân hương vậy.

Chương hai mươi hai
Phật dạy : Người ham mê tiền tài, sắc đẹp, tất nhiên sẽ bị tai vạ. Tài sắc ví như mật dính lưỡi dao. Mật ngon không đáng một miếng ăn, nhưng trẻ con ngây dại, tham liếm chút mật, nhất định chúng sẽ bị đứt lưỡi.

Chương hai mươi ba
Phật dạy : Người ta thường cho rằng bị giam hãm trong nhà tù là khổ. Nhưng sự khổ ấy chưa bằng nỗi khổ bằng sự ràng buộc bởi gia đình, vợ chồng, con cái. Vì người sống trong nhà tù, còn có thì giờ nhàn rỗi, và có khi được ra. Trái lại người có gia đình lúc nào cũng phải lo nghĩ về việc nhà cửa làm ăn... nên rất khổ.
Do sắc sinh tình, do tình sinh ân ái, canh cánh bên lòng. Mặc dầutai nạn phải kề bên miệng hổ, cũng phải cam tâm nhẫn chịu. Người xuống bùn thì phải lấm chân nên gọi là phàm tục. Trái lại người nào vượt ngoài vòng ái dục, gọi là bậc La-Hán xuất trần.

Chương hai mươi bốn
Phật dạy : Người đời có nhiều sự ham muốn, nhưng ham muốn nữ sắc hơn hết, do sắc đẹp sinh lòng ham mến (yêu), nên cái ham mến là hơn hết.
May thay, chỉ có một sắc đẹp, chớ có hai thì tất cả mọi người trong thiên hạ không ai tu nổi được.

Chương hai mươi lăm
Phật dạy : Người mê ái dục, cũng như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, tức nhiên sẽ bị bỏng tay.

Chương hai mươi sáu
Thiên Thần đưa Ngọc nữ (gái đẹp) đến chỗ Phật để phá hoại quả tu của Ngài. Ðức Phật nói : “Cái túi da đựng đồ dơ bẩn, lại đây làm gì ? Tránh xa đi, ta không thèm đâu”. Thiên Thần thấy Phật nói thế, liền khởi tâm kính cẩn, nhân đấy, ông liền hỏi Phật về ý đạo. Phật bèn giải đáp. Thiên Thần nghe xong, liền được chứng quả Tu-Ðà-Hoàn.

6. Tinh-tấn độ

1a. Mặc áo giáp hạnh tinh-tấn

Chương hai mươi bảy
Phật dạy : Người tu đạo, cũng như cây gỗ trên mặt nước, trôi giữa dòng sông, không chạm hai bên bờ, không bị người ta vớt lấy hoặc bị quỷ thần ngăn cản, hay nước xoáy chìm, cũng không bị mục nát. Ta bảo đảm cây gỗ ấy, chắc chắn trôi thẳng về biển.
Người học đạo cũng thế. Nếu không bị tình dục lôi cuốn, hay tà ma ám ảnh, cứ tinh tiến tu phép vô vi, ta bảo đảm người ấy quyết định đắc đạo vậy.

Chương hai mươi tám
Phật dạy : Các Phật-tử ! Phải cẩn-thận đừng nên gần gũi sắc dục. Gần nó tất nhiên sinh hoạ.
Khi đắc quả A-La Hán rồi, mới có thể tin được ý ngươi.

Chương hai mươi chín
Phật dạy : Các Phật-tử, phải cẩn-thận đừng nhìn nữ sắc, cũng chớ nên nói chuyện.
Nếu cùng họ nói chuyện, phải chính-tâm nhớ nghĩ : “Mình là Sa-môn, sống trong cõi đời vẩn đục như hoa sen trong bùn mà không nhiễm chất hôi tanh của bùn. Phải tưởng người già như mẹ (cha). Người lớn hơn như anh (chị), người kém tuổi như em, người trẻ tuổi như con.
Nên khởi chính-tâm cứu độ cho họ được giải-thoát, để dập tắt những ý-nghĩ xằng bậy.

Chương ba mươi
Phật dạy : Người hành đạo phải tránh xa ái-dục, ví như cỏ khô tránh xa lửa.

Chương ba mươi mốt
Phật dạy : Có kẻ lo sợ khi động tình dâm dục không kìm hãm nổi, muốn tự đoạn âm. Phật liền bảo rằng : “Ðoạn âm không bằng đoạn tâm”.
Tâm như ông tướng chỉ-huy. Nếu tướng đình-chỉ thì quân phải theo lịnh. Tâm cũng như vậy. Nếu tâm nghĩ xằng bậy không ngăn cấm được, thì dù đoạn-âm cũng vô ích.
Phật liền thuật lại bài kệ của Ðức Phật Ca-Diếp như sau : “Do ý ngươi sinh tư tưởng, tư tưởng sinh ái-dục. Nếu trong tâm bình tĩnh thì ngoài thân yên ổn”.

Chương ba mươi hai
Phật dạy : Người ta vì tình yêu, tình dục mà sinh buồn phiền, lo nghĩ. Từ lo nghĩ sinh sợ hãi. Nếu không yêu muốn thì không lo sợ chi cả.

1b. Mặc áo giáp tưởng-tinh-tấn

Chương ba mươi ba
Phật dạy : Người tu đạo như người chiến-sĩ đánh nhau với quân địch. Khi người ấy mặc áo giáp ra trận, hoặc hèn nhát nửa đường rút lui, hoặc giao chiến mà chết, hay đánh được khải-hoàn (về).
Sa-Môn học đạo cũng thế. Phải vững chí, tinh tiến, quả cảm, hùng dũng trước nguy hiểm. Quyết tiêu-diệt ma quân để chiếm lấy đạo-quả.

2. Tiếp-thiện tinh-tấn

Chương ba mươi bốn
Một vị Sa-môn đêm đêm tụng kinh Di-Giáo của Phật Ca-Diếp. Tụng lâu tiếng khàn đục, rồi suy nghĩ hối hận muốn thôi.
Phật bèn hỏi : “Ngày trước ông ở nhà làm nghề nghiệp gì ?” Vị ấy đáp : “Con thích đánh đàn”. Phật lại hỏi : “Cây đàn dây chùng thế nào ?” Vị ấy thưa rằng : “Tiếng nó không kêu”. Phật lại hỏi : “Dây đàn lên găng thế nào ?” Vị ấy thưa : “Tiếng gay gắt và sẽ đứt”. Phật lại hỏi : “Dây đàn vừa phải, không căng, không chùng thế nào ?” Vị ấy thưa : “Tiếng nó dịu dàng, êm ái, nghe rất vui tai.” 
Phật dạy tiếp : “Sa-môn các ông học đạo cũng như cây đàn. Phải giữ mực điều-hoà thì đạo mới thắng. Nếu hành đạo quá sức thì thân mỏi mệt, thân nếu mỏi mệt thì ý sanh phiền não, ý sanh phiền não thì thoái đạo. Thoái đạo thì tội lỗi sinh. Nếu tâm an-tịnh giữ mực trung bình, thì đạo không bao giờ mất vậy.

Chương ba mươi lăm
Phật dạy : Người thợ rèn sắt trừ hết sét rỉ, thì sắt mới trở nên đồ dùng tốt.
Người học đạo cũng thế, phải trừ hết tâm nhơ bẩn thì đạo hạnh mới trở nên trong sạch vậy.

3. Lợi lạc tinh-tấn

Chương ba mươi sáu
Phật dạy : Kẻ đã xa lìa được con đường ác, được sinh làm thân người là việc khó. Ðược sinh làm người, lại được được sinh làm đàn ông là khó. Ðược sinh làm đàn ông có sáu căn đầy đủ là khó. Ðược sáu căn đầy đủ, lại được ở giữa Trung-quốc (cõi Trung) là khó. Ðược gặp Phật ra đời là khó. Ðược gặp Phật ra đời lại được gặp đạo là khó. Ðược gặp đạo lại khởi lòng tin kính là khó. Ðã khởi lòng tin đạo lại phát tâm Bồ-đề là khó. Ðã phát tâm Bồ-đề lại tu chứng đến quả-vị không còn phải tu chứng lại là việc khó hơn hết.

V. Minh cấp giới thặng

Chương ba mươi bảy
Phật dạy : Người nào tuy cách xa ta hàng ngàn dặm, nhưng luôn luôn tuân theo giới luật của ta, tất nhiên sẽ được chứng quả. Trái lại, những người dù thân cận bên ta, hàng ngày trông thấy ta mà không chịu noi theo ta, theo những điều ta giảng dạy, thì không bao giờ được chứng đạo quả.

Chương ba mươi tám

Phật hỏi một vị sa môn : “Mệnh người ta sống độ bao lâu ?” Vị Sa-môn thưa : “Trong khoảng vài ngày.” Phật bảo : “Ông chưa biết đạo”. Phật lại hỏi vị Sa-môn khác : “Mệnh người ta sống độ bao lâu ?” Thưa rằng : “Trong khoảng bữa ăn.” Phật bảo : “Ông cũng chưa biết đạo.”
Phật lại hỏi vị Sa-môn khác nữa : “Mệnh người ta sống được bao lâu ?” Thưa rằng : “Trong khoảng giây phút (thở ra hít vào)”. Phật bảo : “Hay lắm! Hay lắm! ông hiểu đạo vậy.”

Tín giáo - Giải lý - Tu hành

I. Tín giáo

Chương ba mươi chín
Phật dạy : Người học đạo nên tin theo những điều giáo-hoá của Phật.
Kinh sách của ta, cũng như ăn mật ở bát, ở giữa hay ở chung quanh bát đều ngọt cả.

II. Giải lý

Chương bốn mươi
Phật dạy : Sa-môn hành đạo, đừng như trâu kéo mật, thân tuy thành đạo, mà tâm không hành đạo thì có ích gì ?
Nếu tâm hành đạo thì thân khỏi phải hành đạo.

III. Tu hành

Chương bốn mươi mốt
Phật dạy : Người hành đạo như trâu chở nặng, đi vào bùn lầy, tuy mỏi mệt, nhưng không dám quay trở lại, trông sang bên phải, bên trái. Chỉ khi nào ra khỏi đám bùn ấy, mới được nghỉ ngơi.
Sa-môn cũng vậy, phải đề phòng tình dục tệ hại hơn bùn lầy. Phải nhất tâm suy nghĩ về đạo, mới có thể thoát khỏi khổ não.

Phần kết luận

Chương bốn mươi hai
Phật dạy : Ta coi ngôi vua, quan như bụi qua kẽ hở, coi vàng ngọc như ngói sỏi, coi nhung lụa gấm vóc như vải thô, coi đại-thiên giới như hạt cải, coi nước.

Đọc thêm:
Kinh Bốn Mươi Hai Chương, Thích Viên Giác Dịch và Giảng
Kinh Bốn Mươi Hai Chương, Thích Phước Tịnh Dịch và Giảng
Kinh Phật Nói Bốn Mươi Hai Chương, HT. Tuyên Hóa
Kinh Bốn Mươi Hai Chương, HT. Thích Tâm Châu

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15764)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11080)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53659)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12983)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16529)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15405)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19163)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19940)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15556)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15357)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15146)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20335)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23962)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15495)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13037)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20145)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13287)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29027)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11710)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18298)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16647)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13244)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12808)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13253)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12983)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12868)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13006)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13549)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11722)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14249)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17744)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22604)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13449)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14333)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105770)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14608)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19793)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38438)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15532)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34685)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16058)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11343)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15666)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14040)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12827)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13710)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12506)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19386)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27027)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13142)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13481)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21614)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17976)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21907)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14214)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16079)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16151)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19115)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24792)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant