Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

I. Dẫn Nhập

28 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8760)
I. Dẫn Nhập

KINH BỐN MƯƠI HAI BÀI
HT. Thích Trí Quang dịch

Dẫn nhập

Tài Liệu và Ký Hiệu
Những tài liệu với ký hiệu sau đây được dùng để viết lời dẫn nhập này. 
Đại tạng kinh bản Đại chính, các tập 17, 55, 98 và 99, ký hiệu là Chính 17 ... Tục tạng kinh bản chữ Vạn tập 59, ký hiệu là Vạn 59. Thái hư toàn thư tập 6. Kinh ày, kinh Tứ thập nhị chương (kinh 42 bài), viết tắt là kinh 42 bài. Kinh này mà bản A, ký hiệu là A/1 (bản A bài 1); bản B, ký hiệu là B/1 (bản B bài 1). Phật học nghiên cứu, bài 2, trang 3-7. 

Văn Bản Kinh 42 Bài
 
Văn bản ấy không duy nhất, chứng tỏ có sự sửa chữa thấy rất rõ. Ít nhất, trong khi tôi viết bài này, kinh 42 bài có các bản chính văn sau đây. 

1. Bản A, nằm trong Chính 17/722-724. Bản này tương đối xưa nhất. Tôi chắc không có vào thời Hậu Hán thì cũng có vào thời Tam quốc. Chữ và văn đều xưa, nhưng nguyên chất thấy rõ. Chỉ có bài 10 không có điều gặp thiện tri thức, 1 yếu tố quan trọng; bài 27 không có câu chót "sinh tâm độ thoát", 1 câu rất quan trọng; bài 42 không có 2 điều không đáng không có, đó là "coi cái trò phải trái như 6 con rồng cùng múa" và "coi sự sinh diệt của tất cả các pháp như cái cây trải qua 4 mùa"; bài 40 ví dụ hơi lạ. Ngoài ra, tất cả đều hoàn chỉnh. Duy văn tự của bản A thì quả là xưa: chữ rác khá nhiều, văn cũng vậy. Nhưng chính điều này chứng tỏ chính văn nguyên thỉ của kinh 42 bài là bản A này. 

2. Bản B là bản thông hành hiện nay. Bản này cũng không phải có sau hết. Nhưng sớm nhất cũng phải có vào đầu Tống, vì văn tự ngữ khí thuần túy là văn phong lý học của thời ấy. Bản này chữa bản A mà thành, điều ấy quá rõ rệt. Nhưng chữa theo ý riêng nhiều quá. Trước hết, có 2 chỗ chữa, có thể nói quá sai, đó là A/9 chữa thành B/11, và A/15 chữa thành B/18. Thêm thì nhiều nhất là B/12 và B/42, chưa kể có bài bớt trọn, có bài thêm trọn, coi bảng đối chiếu sau đây sẽ thấy. Đặc biệt có bài bớt không nên bớt, đó là A/36 thành B/36; có bài chữa không nên chữa, đó là A/7 thành B/9. Bây giờ hãy nói văn khí. Rõ ràng người chữa thành bản B rất sính dùng ngữ khí Thiền tông (mà cũng chỉ từ Tống về sau). Cứ đọc các bài 2, 11, 12, 18, 36 và 42 thì thấy. Nói thí dụ, trong bài B/11, có chữ kiến tánh học đạo, chữ này hoàn toàn là của Thiền tông, không làm gì có trước Đường, làm gì có trước nữa. Sự sính dùng ngữ khí Thiền tông, sính đến nỗi chỗ nào xổ ra được là xổ ra, bất kể đúng sai, lợi hại. Cứ đọc câu nói láy "tâm đạo nhược hành, hà dụng hành đạo" (B/40) cũng đủ thấy. Ngữ khí Thiền tông hay cầu kỳ, phóng túng, hồn hàm, thêm nữa là văn phong lý học thời Tống, thì bản B được thông hànhưa chuộng, cũng không lạ. 

3. Ngoài 2 bản trên, có thể tìm thấy vài bản nữa. Thứ nhất là chính văn của hoàng đế Chân tông của đời Tống đã chú thích (Vạn 59/25-33). Chính văn này hỗn hợp cả 2 bản A và B mà thành, cũng bỏ chỗ không nên bỏ, thêm cái không đáng thêm, chữa điều không nên chữa. Thậm chí đầu và cuối kinh còn thêm "Lúc ấy đức Thế tôn nói cho bản kinh chân thật gồm có 42 bài", "Chư vị đại tỷ kheo nghe những điều Phật tuyên thuyết, ai cũng hoan hỷ phụng hành". Thứ hai, chính văn của Quán đảnh hành giả Tục pháp (Vạn 59/49-52), lời tựa nói "ngẫu nhiên được một phường bản tốt", nhưng nội dung chỉ lấy câu chót của A/9 làm thành bài 12, còn lại toàn là lấy bản B, nhưng cũng có câu đầu và câu cuối như bản thứ nhất. Ngoài 2 bản này, có vài bản theo bản thứ hai, còn tất cả đều là bản B. Điều kỳ lạ, là trong tất cả lời mở đầu, dầu bằng dạng nào, cũng không thấy ai nói đến bản A. 

Đến đây đã có thể tổng kết được. Rằng kinh 42 bài thực sự chỉ 2 bản A và B là đáng nói. Bản A có thể nói là nguyên hữu, bản B rõ ràngsửa chữa bản A. Vì sự nguyên hữu mà bản A tôi trọng hơn cả - mặc dầu tôi vẫn dịch bản B để tiện đối chiếu, tham khảo. Sau hết, vì bản A chữ rác hơi nhiều, văn lại có thể làm gọn, nên tôi dịch bản A rồi, lại làm một bản trùng trị, chữa lại chính văn bản A, rồi dịch và lược giải. Thâm ý chỉ để đánh bóng bản A mà thôi. 

Lai Lịch Kinh 42 Bài 

Tôi để mục này riêng ra, và nói ở đây, là để dễ thấy. Theo sách Phật học nghiên cứu của Lương Khải Siêu (bài 2, trang 3-7), thì kinh 42 bài không thể nói là dịch phẩm của thời Hậu Hán, mà nên nói là thời Tam quốc, lưỡng Tấn, và dịch giả có thể là Chi Mẫn Độ, cũng có thể là Chi Khiêm. Nhưng điều bất cẩn và sai lầm lớn lao của Lương Khải Siêu là chỉ nói bản B mà không đọc đến bản A, dầu bản này mới là của Đại tạng. Nói bản B thì nên nói sớm lắm là trước thời Tống, nói thời Tam quốc và lưỡng Tấn thì sớm quá. Ấy là chỉ căn cứ văn tự mà đã thấy nên nói như vậy. 

Chính 98/660 và 678 (Mục lục trước dịch của Đại tạng kinh bản Đại chính), nói các ngài Ma đằng và Pháp lan, người Trung Ấn, năm 67, thời Hậu Hán, đến Lạc dương, cùng nhau dịch kinh 42 bài. 

Chính 55/5 (Xuất tam tạng ký tập, của ngài Tăng hộ, một vị bác học), điều Tứ thập nhị chương kinh, ghi "kinh 42 bài thời Hiếu minh hoàng đế thiếu trong kinh lục của ngài Đạo an". 

Chính 49/49 (Lịch đại tam bảo ký, của Phí Trường Phòng, học sĩ dịch kinh) ghi "kinh 42 bài là kinh đầu tiên ở Trung hoa. Cựu lục nói kinh ấy vốn là kinh sao chép của nước ngoài (Ấn độ), sao chép từ các bộ kinh lớn mà toát yếu để hướng dẫn quần chúng, tựa như Hiếu kinh có 18 bài". 

Xuất xứ nói trên mà ở trang khác, nơi điều Chi Khiêm, ghi "kinh Tứ thập nhị chương này dịch ra lần thứ 2, hơi khác với bản dịch (thứ 1) của ngài Ma đằng, văn nghĩa chín chắn, câu lời trang nhã. Thấy trong mục lục riêng" (Chính 49/57-58). 

Căn cứ những tài liệu trên đây thì có đến 2 bản dịch về kinh 42 bài. Người ta có thể dễ dàng nói đó là bản A và bản B, 1 của ngài Ma đằng, 1 của ngài Chi Khiêm. Nhưng tôi quả quyết không "hơi khác"gì cả, mà bản B là chữa bản A, và không có trước thời Tống. Không thiếu chữ trong bản B, dầu chữa bản A mà không cần dè dặt, nên đạo có chỗ đã thành pháp, đệ tử đã ra Phật tử ... Có chỗ chữa mà là viết, không thể nào nói là văn dịch. Kết luận của tôi là nếu có 2 bản kinh 42 bài thì, từ lâu, chỉ còn 1 bản, và bản ấy là bản A. Còn bản B đích là chữa bản này mà thành. 

Nội Dung Kinh 42 Bài 
Về nội dung hình thức, dưới đây là bản đối chiếu 42 bài của bản A và bản B. 
Bản A 
 Bản B 

không có tiểu dẫn 
1 1 
không có 2 
2 3 
3 4 
4 5 
5 6 và 7 
6 8 
7 9 
8 10 
9 11 
10 12 
11 13 
12 14 và 15 
13 16 
14 17 
15 18 
16 19 
17 không có 
18 20 
19 21 
20 22 
21 23 
22 24 
23 25 
24 26 
25 27 
26 28 
27 29 
28 30 
29 và 30 31 
31 32 
32 33 
33 34 
34 35 
35 không có 
36 36 
37 38 
38 37 
39 39 
40 không có 
không có 40 
41 41 
42 42 

 
Đáng lẽ là tôi nên làm cái dấu gì đó để cho thấy bài nào bản B đã chữa nhiều hay chữa ít. Nhưng người đọc sẽ tra thấy không khó, nên thôi. Về nội dung ý nghĩa, tuy 42 bài là trích yếu hoặc trích diễm, nhưng rõ ràng trích với ý nghĩa được đặt định, nên rất nhất quán. Ý nghĩa ấy là tu hành tứ đế

Ngay trong bản A, ít ra là các bài 9, 12, 13, 14, 27, 36, đều có chữ và nghĩa của đại thừa. Nhưng toàn là do cái thế của ý nghĩa nên nói thấu đại thừa mà thôi. Thêm nữa, người làm việc trích yếu và trích diễm rõ ràng không phải là học giả chỉ thừa nhận tiểu thừa. Dầu vậy, tu hành tứ đế vẫn là xương cốt máu thịt của kinh 42 bài. Bản B chữa và thêm rất đại thừa thật đấy, nhưng là vụn vặt, thừa cái thế văn ý mà nói theo ngữ khí Thiền tông, không thể chứng tỏ kinh 42 bài, qua bản B, là đại thừa. Bản B chỉ làm cái việc điểm bông hoa đại thừa rực rỡ trên cái áo tiểu thừa khá mộc mạc. 

Ý nghĩa tu hành tứ đế của kinh 42 bài như thế nào? 
a. Về mục đích (bài A/1) là A la hán, là ái tận niết bàn: là diệt đế
b. Về đối tượng (hầu hết 42 bài) là ái dục, là kiến hoặc tu hoặc: là tập đế
c. Về phương pháp (cũng hầu hết 42 bài) là đạo đế

Chủ yếu trong mục C, rất dễ dàng thấy 42 bài dạy làm theo 8 chánh đạo, nhắm vào ái dục. Ái dục, nói xác là tình áitình dục, nói rộng là ưa thíchham muốn. Tuy nhấn mạnh đến sắc dục, kinh này vẫn nói đủ cả 5 dục: tài (tiền tài) sắc (sắc dục) danh (hoa danh) thực (thực dục) thụy (ngủ nghỉ). Chữ đạo mà kinh này nói, tuy nhiều mà rất rõ: đa số chỉ cho diệt đế, thiểu số chỉ cho đạo đế; không thể (và rất không nên) cố chỉ ép cho chân như

Nội dung như vậy thật đơn giản. Và do vậy mà rất quí báu, cho cấp độ tu học sơ cơ. Cũng cần phải nói, tuy 42 bài có thể nói là những lời huấn dụ cho bất cứ ai, nhưng rõ ràng trước hết, và chủ yếu, là nói cho người xuất gia

Mặt khác, nội dung kinh 42 bài còn có 3 điều nữa mà không kinh luận nào nói đơn giản và quan trọng bằng. Đó là một, đề cao sự hiếu với cha mẹ (bài 9 bản A), hai, đề cao hành vi (Nghiệp), và ba, đề cao ngũ giới (bài 3 của bản A). Ba điều này nói thật chính xác và rất rõ về cái mà sau này gọi là Phật giáo nhân thừa

Một hôm tôi đột nhiên nghĩ nhiều đến kinh 42 bài. Mối nghi ngờ bản B có từ lâu lại khơi dậy. Tôi mới tra Đại tạng kinh bản Đại chính mà coi, vì biết ở đó có ghi chú cần thiết. Quả nhiên tìm thấy chính văn bản A. Cảm vì sự chất phác của chính văn ấy, vì tư tưởng thiết cận và nhất quán của kinh này, nhất là cảm vì câu nói chót của bài A/9 mà tôi đọc được gần ngày Vu lan, nên tôi làm việc liền cho kinh 42 bài, hiến dâng chút phước này lên đức Địa tạng đại sĩ, cầu nguyệnhồi hướng cho hiện thếđa sinh phụ mẫu, cho sư trưởng thiện hữu, cho pháp giới hữu tình

Địa tạng đại sĩ thánh đản

2 9 . 7 . 2 5 3 7 

Trí Quang 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12423)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 13978)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10742)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10408)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11075)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11871)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13045)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13528)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33515)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11253)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12825)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 12959)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11527)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17773)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11321)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11749)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11406)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18872)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12462)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11218)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13061)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15626)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11732)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11612)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12633)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12548)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13863)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12889)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12835)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13203)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12654)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12610)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11667)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11654)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12234)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12254)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19692)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11878)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11907)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16734)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12574)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 14948)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 15985)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12766)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12141)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11805)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11843)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13048)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16421)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13146)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12391)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11733)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19737)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11071)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11182)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10316)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11015)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10885)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 9952)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11659)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant