KINH BỐN MƯƠI HAI BÀI
HT. Thích Trí
Quang dịch
3
Dịch Nghĩa Bản B
Kinh Bốn Mươi Hai Bài
(1)
Thời đại Hậu Hán
(2) , Ca diếp ma đằng và Trúc pháp lan cùng dịch.
(Tiểu Dẫn)
Đức Thế tôn thành
đạt toàn giác rồi, nghĩ rằng, tách rời ái dục, thể hiện thanh tịnh, là điều hơn
hết. Ngài sống trong đại định, chiến thắng ma quân. Rồi đến Lộc uyển, ngài
chuyển đẩy bánh xe chánh pháp tứ đế, hóa độ tôn giả Kiều trần như, và cả
nhóm 5
người, cùng thành tựu đạo quả. Sau đó lại có các vị tỷ kheo trình bày hoài nghi,
xin ngài huấn dụ điều gì nên tiến hành, điều gì nên đình chỉ. Ngài đã huấn dụ,
và ai cũng khai ngộ, chắp tay kính vâng, thuận theo huấn dụ của ngài (3)
.
Ghi Chú (1)
Coi ghi chú A/1
(ghi chú 1 của dịch nghĩa bản A ; sau phỏng theo đây, chỉ khác số).
Ghi Chú (2)
Coi ghi chú A/2
.
Ghi Chú (3)
a. Lời tiểu dẫn
này bản A không có. Nhưng không phải bản ấy thiếu, mà là bản này thêm, chỉ văn
từ không cũng cho thấy rõ như vậy.
b. Lời tiểu dẫn
này muốn nói 42 bài sau đây là trích yếu hoặc trích diễm những huấn dụ của Phật
khi chuyển pháp luân và tiếp theo sau đó.
(1)
Phật nói, từ biệt
cha mẹ, thoát ly gia đình, thể nhận tự tâm, thấu suốt bản thể, hội nhập vô vi,
nên gọi là sa môn. Thường giữ 250 giới, động và tĩnh đều thanh tịnh, làm
theo
tứ đế, thành A la hán (4) . A la hán là bậc có thể phi hành, biến hóa, kéo dài
sinh mạng, chấn động thế giới. Kế đó là A na hàm; A na hàm là mạng chung
thì
sinh (5) trên tầng trời mười chín, ở đó thành A la hán. Kế đó nữa là Tư đà hàm;
Tư đà hàm là một lần lên xuống thì thành A la hán. Sau hết là Tu đà hoàn; Tu đà
hoàn là bảy lần lên xuống thì thành A la hán. Ái dục (mà các bậc thánh giả này)
cắt đứt thì như tay chân đứt rồi không dùng được nữa (6) . (Bài thứ 1).
Ghi Chú (4)
Coi ghi chú A/6 và
A/7 .
Ghi Chú (5)
Coi ghi chú A/9 và
A/10 .
Ghi Chú (6)
Coi ghi chú A/11
.
(2)
Phật nói, đã xuất
gia làm sa môn thì dứt bỏ ái dục, thể nhận nguồn gốc của tâm, thấu suốt lý sâu
của Phật, hội nhập vô vi, trong không thủ đắc, ngoài không mong cầu, tâm
trí không
ràng buộc vào đạo, cũng không kết thắt vào nghiệp, không tư tưởng, không
thi
vi, phi tu hành, phi chứng đắc, không trải qua mọi cấp độ mà vẫn tôn cao, như
thế gọi là đạo (7) . (Bài thứ 2).
Ghi Chú (7)
Bài này trùng lặp,
thêm thắt và chải chuốt thấy rõ. Cùng các bài 11, 18, 36, 42 sau đây nữa, bài
này còn có cái ngữ khí cầu kỳ phóng túng của Thiền tông.
(3)
Phật nói, cạo bỏ
râu tóc mà làm bậc sa môn tiếp nhận đạo pháp, thì hãy rời bỏ tài sản thế
gian,
khất thực (8) vừa đủ. Mỗi ngày đứng bóng ăn một bữa, mỗi đêm dưới cây ngủ một
lần, thận trọng đừng thêm. Làm cho người u mê che lấp chính là ái dục. (Bài thứ
3).
Ghi Chú (8)
Coi ghi chú A/12
.
(4)
Phật nói, chúng
sinh do 10 sự mà lành, cũng do 10 sự mà ác. Những gì là 10 sự? Là thân có 3,
miệng có 4, ý có 3. Thân có 3 là sát sinh, trộm cướp, dâm dục. Miệng có 4
là ly
gián, mắng chưởi, dối trá, thêu dệt. Ý có 3 là ganh ghét, tức giận, u mê. Mười
sự như vậy không thuận với đường đi của các bậc thánh giả nên gọi là hành vi
ác. Cái ác này đình chỉ thì gọi là hành vi lành (9) . (Bài thứ 4).
Ghi Chú (9)
Đối chiếu với bài
3 bản A, bài này bỏ một đoạn dưới mà xét ra không nên bỏ.
(5)
Phật nói, người có
lỗi mà không tự hối, ngưng liền, thì lỗi dồn lại nơi thân mình như nước đổ về
biển cả, thành ra càng sâu càng rộng. Có lỗi mà biết là trái, đổi ác làm
lành,
thì lỗi hết dần đi, như bịnh mà đổ mồ hôi thì sẽ lành dần. (Bài thứ 5).
(6)
Phật nói, kẻ ác
nghe người lành mà cố đến quấy phá, thì, các vị sa môn, hãy tự chế ngự, đừng
giận dữ, tránh mắng. Bởi vì kẻ ác làm ác thì tự hại lấy mình. (Bài thứ
6).
(7)
Phật nói, có người
nghe Như lai giữ gìn đạo hạnh, làm đại nhân từ, nên cố ý đến mắng Như lai. Như
lai yên lặng, không trả lời. Mắng rồi, Như lai hỏi, ông đem lễ vật biếu người,
người không nhận thì lễ vật ấy trở về ông chăng? Trả lời, trở về. Phật nói, nay
ông mắng Như lai, Như lai không nhận thì ông cũng tự đem tai họa trở về bản
thân của ông. Vang ứng theo tiếng, bóng tùy theo hình, không thể tránh khỏi.
Hãy thận trọng, đừng làm ác. (Bài thứ 7).
(8)
Phật nói, người ác
hại người hiền thì như ngửa mặt lên trời mà nhổ nước dãi, nước dãi không
thấu
trời mà lại rơi xuống nhằm mình; như ngược gió tung bụi, bụi không đến người mà
lại làm dơ bản thân. Người hiền không thể hại được mà bản thân tất bị tai họa.
(Bài thứ 8).
(9)
Phật nói, đọc rộng
sách vở (10) , đắm say đạo lý, thì đạo khó thể hội. Cố thủ tâm chí, tôn sùng
đạo hạnh, thì đạo rất lớn lao (11) . (Bài thứ 9).
Ghi Chú (10)
Dịch như vậy vì ở
đây bác văn mà văn là văn bài.
Ghi Chú (11)
Dịch như bài này
thật đã chuyển văn khá nhiều. Là để cho nhẹ bớt sự khá vô lý của 2 vế nói trong
bài này. Bài này chữa mà không bằng bài 7 bản A.
(10)
Phật nói, thấy
người bố thí, hãy giúp một cách vui vẻ, thì được phước rất lớn. Sa môn hỏi
Phật, phước ấy có hết đi không, Phật nói, như lửa nơi một cây đuốc, hàng
ngàn
hàng trăm người đem đuốc đến lấy lửa ấy mà nấu ăn, soi sáng, lửa vẫn như
cũ.
Phước ấy cũng như vậy. (Bài thứ 10).
(11)
Phật nói, đãi cơm
một trăm người thường không bằng một người tốt. Đãi cơm một ngàn người tốt
không bằng một người giữ 5 giới. Đãi cơm một vạn người giữ 5 giới không bằng một
vị Tu đà hoàn. Hiến cơm trăm vạn Tu đà hoàn không bằng một vị Tư đà hàm.
Hiến
cơm ngàn vạn Tư đà hàm không bằng một vị A na hàm. Hiến cơm một ức A na hàm
không bằng một vị A la hán. Hiến cơm mười ức A la hán không bằng một vị Bích
chi phật. Hiến cơm trăm ức Bích chi phật không bằng một đức Phật thuộc thì gian
(12) . Hiến cơm ngàn ức đức Phật thuộc thì gian không bằng một bậc không
nhớ
không ở không tu không chứng (13) . (Bài thứ 11).
Ghi Chú (12)
Dịch đủ là thì
gian quá khứ hiện tại vị lai. Đức Phật thuộc thì gian là đức Phật hóa
thân.
Ghi Chú (13)
a. Chỉ có thể hiểu
bậc này là đức Phật pháp thân. Nhưng pháp thân thì có pháp lạc, làm gì có đoàn
thực. Nếu nói đây là người đốn ngộ đốn siêu (tựa như đoạn chót bài 2 nói) lại
càng bất ổn.
b. Đối chiếu với
đoạn chót của bài 9 bản A thì đoạn chót bài này kém đến vô lý - dầu nói có vẻ
hay ho.
(12)
Phật nói, làm
người có 20 điều khó: nghèo nàn mà bố thí mới khó, giàu sang mà học đạo mới
khó, liều mình mà chắc chết mới khó, được nhìn thấy kinh Phật mới khó, sinh ra
gặp đời Phật mới khó, nhịn sắc đẹp và ái dục mới khó, thấy tốt mà không cầu mới
khó, bị nhục mà không tức mới khó, có thế mà không ỷ (13B) mới khó, gặp việc
không quan tâm mới khó, học rộng tham khảo nhiều mới khó, loại trừ sự kiêu ngạo
(14) mới khó, không khinh người chưa học mới khó, tâm tính mà bình đẳng mới
khó, không hề nói phải trái mới khó, gặp được thiện tri thức mới khó, thấy tánh
mà học đạo mới khó, theo mà hóa độ người mới khó, thấy cảnh mà bất động mới
khó, khéo biết phương cách hay mới khó (15) . (Bài thứ 12).
Ghi Chú
(13B)
Cũng có thể dịch:
có thế không xu phụ.
Ghi Chú (14)
Dịch đúng chính
văn là kiêu ngạo vì tự ngã.
Ghi Chú (15)
Đối chiếu với bài
10 bản A, bài này thêm đến 15 cái khó. Nhưng, nhìn những cái khó được thêm thì
thấy thiếu gì cái khó cần thêm nữa. Và, cứ nhìn điều "thấy tánh mà học
đạo", đã có thể nói đó là văn và ý của Thiền tông, và có không trước Đường
Tống.
(13)
Sa môn hỏi Phật,
nhờ gì mà được sự biết đời trước? mà thể hội đạo chí thượng? Phật nói, sạch
lòng bền chí thì thể hội đạo chí thượng. Và như lau kính thì dơ hết là sáng lộ:
loại ái dục, không mong cầu, thì sẽ được sự biết đời trước. (Bài thứ 13).
(14)
Sa môn hỏi Phật,
lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là
lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất. (Bài thứ 14).
(15)
Sa môn hỏi Phật,
mạnh nhiều là gì? sáng nhất là gì? Phật nói, nhẫn nhục thì mạnh nhiều, vì không
ôm giữ điều ác, thêm vào là an toàn mạnh khỏe ; nhẫn thì không ác, tất được người
trọng. Dơ bẩn của tâm trí được loại trừ hết cả, sáng không tì vết, đó là
sáng
nhất; vô thỉ đến giờ (16) , vũ trụ có gì thì không có gì mà không thấy, không biết
và không nghe, được cái tuệ giác biết toàn bộ mới là sáng nhất. (Bài thứ
15).
Ghi Chú (16)
Coi lại ghi chú
A/27 .
(16)
Phật nói, có ái
dục thì không thấy đạo, y như nước đứng trong mà để tay vào ra sức quấy lên thì
ai đến cũng không thấy hình ảnh: ái dục giao xen, làm bẩn tâm trí, nên không
thấy đạo. Sa môn các ông phải bỏ ái dục; ái dục dơ bẩn được loại bỏ hết cả thì
đạo có thể thấy được. (Bài thứ 16).
(17)
Phật nói, thấy đạo
là như cầm đuốc vào trong nhà tối, tối hết mà sáng còn: học đạo mà thấy thánh
đế (17) thì vô minh diệt hết mà minh trí thường còn. (Bài thứ 17).
Ghi Chú (17)
Coi lại ghi chú
A/33 .
(18)
Phật nói, đạo (18)
của Như lai nhớ là không nhớ mà nhớ, làm là không làm mà làm, nói là không nói
mà nói, tu là không tu mà tu (19) . Thể hội thì gần lắm, mê mờ thì xa vời! Ngôn
ngữ chấm dứt ở đây. Ở đây khái niệm không thể hạn cuộc (20) . Sai trong tơ tóc
thì mất trong phúc chốc. (Bài thứ 18).
Ghi Chú (18)
Chính văn là pháp,
chữ rất chỉnh, nhưng là chữ sau xa thời đại kinh này. Kinh này thì ở đây
vẫn
phải là đạo (như chính văn bài 15 bản A) - một chữ thống nhất trong toàn
kinh
này. Đạo ở đây, coi lại ghi chú A/25 và coi ghi chú 19 dưới đây.
Ghi Chú (19)
Trong 4 chữ chính
văn niệm, hành, ngôn, tu, niệm là tư tưởng, nghĩ tưởng, nhớ nghĩ, dịch nhớ chỉ
là nghĩa đen. Ý nghĩa 4 câu như sau. Đạo (Pháp) ở đây là diệt đế niết bàn (nói
theo tiểu thừa), là chân như (nói theo đại thừa). Đạo ấy thì ngôn ngữ đạo đoạn,
tâm hành xứ diệt (siêu việt ngôn ngữ, siêu việt tư duy). Nhớ, làm hay nói, tu ở
đây là nhớ, làm hay nói, tu cái Đạo ấy. Đạo ấy vốn thanh tịnh (không nhớ, không
làm, không tu), nhưng vì phiền não che khuất nên phải chánh niệm (nhớ) và tu
trị, (làm và tu) mới hiển lộ. Đạo ấy vốn ly ngôn (không nói), nhưng phải
mượn
ngôn ngữ (nói) mà truyền đạt cho người. Trên đây là giải thích theo văn và ý
của bài này, nhưng để thấy bài này xuất từ bài 15 bản A mà đi rất xa và rất sai
văn với ý của bài ấy. Bài này của bản B nói như cao mà kém thấy rõ.
Ghi Chú (20)
Dịch đúng chính
văn là không phải mọi vật có thể câu thúc. Chính văn này không chỉnh. Chỉnh thì
phải nói tâm hành xứ diệt (khái niệm loại bỏ), vì đi với câu trước đó là
ngôn
ngữ đạo đoạn (ngôn ngữ chấm dứt).
(19)
Phật nói, xét trời
đất hãy nhớ vô thường, xét thế giới hãy xét vô thường, xét linh giác thấy là bồ
đề (21) . Nhận thức như vậy thì đắc đạo mau chóng. (Bài thứ 19).
Ghi Chú (21)
Linh giác: tuệ
giác linh thiêng (mà chúng sinh vốn có). Bồ đề: tuệ giác vô thượng (mà chư Phật
thực hiện). Xét linh giác là bồ đề, cái xét ấy đúng, nhưng không thích hợp với ở
đây đang nói, và chỉ nên nói, về đạo lý vô thường.
(20)
Phật nói, hãy nghĩ
nhớ, trong cơ thể, 4 đại (22) đều có tên riêng, không có gì là ngã (23) :
ngã
không có thì chỉ như ảo thuật. (Bài thứ 20).
Ghi Chú (22)
Coi lại ghi chú
A/38 .
Ghi Chú (23)
Coi lại ghi chú
A/39 .
(21)
Phật nói, do ái
dục mà cầu danh tiếng, danh tiếng vang đồn thì bản thân đã cũ! Ham danh tiếng
tầm thường mà không học đạo, thì chỉ uổng công mệt xác! Ví như đốt hương, hơi thơm
nghe được thì cây hương đã tàn: cái lửa hại mình theo liền sau danh tiếng. (Bài
thứ 21).
(22)
Phật nói, tiền tài
và sắc đẹp mà con người không bỏ được, thì cũng như lưỡi dao có một chút
mật
ngọt, không đủ myՠvị một bữa ăn, nhưng trẻ con liếm vào thì có cái họa đứt
lưỡi. (Bài thứ 22).
(23)
Phật nói, con
người ràng buộc vào vợ con nhà cửa thì còn hơn lao ngục. Lao ngục còn có
ngày
phóng thích, chứ vợ con thì đâu có ý thoát ly. Ái dục đối với sắc đẹp thì đâu còn
ngại gì quay cuồng! Cái họa miệng cọp cũng vẫn cam tâm! Nên, gieo mình ngập
xuống bùn lầy là kẻ phàm phu, vượt thoát cảnh ấy là bậc La hán siêu thoát trần
tục. (Bài thứ 23).
(24)
Phật nói, ái dục
thì không gì hơn sắc đẹp. Sắc đẹp tạo ra ái dục thì không gì lớn bằng. Nhờ chỉ
có một cái như vậy, giả sử có 2 cái như nhau, thì thiên hạ không còn ai hành
đạo được nữa. (Bài thứ 24).
(25)
Phật nói, ái dục
đối với con người thì cũng như cầm đuốc mà đi ngược gió, tất có cái họa cháy
tay. (Bài thứ 25).
(26)
Thiên thần hiến
ngọc nữ cho Phật, muốn quấy phá tâm ngài. Ngài nói, cái đãy da chứa đầy dơ bẩn
kia, đến đây làm gì? Hãy đi đi, Như lai không dùng. Thiên thần càng trọng Phật,
nhân đó hỏi ngài về ý đạo. Ngài giảng giải cho, liền thành đạt đạo quả Tu đà
hoàn. (Bài thứ 26).
(27)
Phật nói, hành đạo
thì như cái cây ở trong dòng nước, hãy theo dòng nước mà trôi đi, không mắc hai
bên bờ, không bị người vớt lấy, không bị quỉ thần ngăn chận, không bị nước xoáy
làm đứng lại, không bị thối rã, thì Như lai bảo đảm cây ấy vào được biển
cả.
Hành đạo cũng vậy, không bị ái dục mê hoặc, không bị tà ngụy quấy phá, tinh
tiến mà không do dự (24) , thì Như lai bảo đảm người ấy đắc đạo. (Bài thứ
27).
Ghi Chú (24)
Chính văn bài 25
bản A là vô nghi (không do dự), chính văn bài này là vô vi (không làm gì): kém,
và sai nữa. Nên phải chuyển dịch. Cũng có thể dịch không làm gì khác, nhưng
không bằng không do dự.
(28)
Phật nói, thận
trọng, đừng tin ý của các người, ý của các người không bao giờ tin được.
Thận
trọng, đừng tiếp xúc sắc đẹp, tiếp xúc thì tai họa có liền. Được tuệ giác La
hán rồi mới nên tin ý của các người. (Bài thứ 28).
(29)
Phật nói, thận
trọng, đừng nhìn sắc đẹp phụ nữ, cũng đừng nói chuyện. Phải nói chuyện thì hãy
chánh tâm nghĩ rằng, ta là sa môn, ở trong cuộc đời dơ bẩn này ta phải như đóa sen
không dính bùn lầy. Nghĩ tưởng già như mẹ, lớn như chị, trẻ như em, nhỏ như
con, sinh cái tâm độ thoát, diệt cái ý bất chính. (Bài thứ 29).
(30)
Phật nói, hành đạo
là như mang cỏ khô thì gặp lửa phải tránh : người hành đạo gặp ái dục thì phải
tránh cho xa. (Bài thứ 30).
(31)
Phật nói, có người
bực vì tình dục không ngừng, muốn tự đoạn âm (25) . hật nói, đoạn âm đâu
bằng
đoạn tâm. Tâm như pháp quan, pháp quan không có thì cũng không có công sai. Tâm
tà không ngừng thì đoạn âm ích gì. Phật nói cho bài chỉnh cú sau đây.
Dục tình do ý sinh,
ý sinh do tư
tưởng;
ý và tư tưởng
ấy
cả hai cùng vắng
lặng,
thì không cảm sắc
đẹp,
cũng không còn
hành dâm (26) .
Phật nói, bài
chỉnh cú này của đức Ca diếp như lai đã nói. (Bài thứ 31).
Ghi Chú (25)
Coi lại ghi chú
A/42
Ghi Chú (26)
Phần sau bài chỉnh
cú này là chữa phần sau bài chỉnh cú của bài 30 bản A. Câu chót của chính văn
bài này là phi sắc diệc phi hành, văn ý hồn hàm. Dịch như đã dịch là đã chuyển cả
văn ý.
(32)
Phật nói, con
người do ái dục mà lo buồn, do lo buồn mà sợ hãi. Ái dục mà không thì còn lo
buồn gì, còn sợ hãi gì. (Bài thứ 32).
(33)
Phật nói, hành đạo
là như một người chiến đấu với muôn người. Mặc áo giáp, ra chiến trường,
nhưng
có kẻ khiếp nhược, có kẻ nửa đường thoái lui, có kẻ quyết chiến mà chết,
có kẻ
đắc thắng mà về. Ấy vậy, sa môn học đạo thì phải kiên trì tâm chí, tinh nhuệ
bước tới, không sợ cảnh tượng trước mắt, tiêu diệt ma quân mà thủ đắc đạo quả.
(Bài thứ 33).
(34)
Có vị sa môn ban
đêm tụng kinh Di giáo của đức Ca diếp như lai, tiếng nghe rất buồn, có vẻ hối
tiếc, muốn lui về thế tục. Phật hỏi, khi ông ở nhà thì làm gì? Thưa, thích đánh
đàn. Giây đàn dùi thì thế nào? Thưa, không kêu. Giây đàn căng thì thế nào?
Thưa, mất tiếng. Căng dùi vừa phải thì thế nào? Thưa, âm điệu phát ra đủ
cả.
Phật nói, sa môn học đạo cũng phải như vậy: tâm trí chừng mực thì đạo phải
được. Với đạo, nếu thái quá thì cơ thể mệt mỏi, cơ thể mệt mỏi thì tâm ý
bực
bội, tâm ý bực bội thì tu hành lùi bước, tu hành lùi bước thì tội lỗi thêm lên
(27) . Thanh tịnh quân bình (28) thì đạo không mất. (Bài thứ 34).
Ghi Chú (27)
Từ chữ với đạo đến
đây là lấy đoạn sau của bài 34 bản A đặt vào đây. Đặt như vậy rất hợp lý.
Ghi Chú (28)
Chính văn là an
lạc (yên vui). Chữ này không chỉnh. Chỉnh thì phải là khinh an: trạng thái quân
bình thư thái của cơ thể và tâm trí.
(35)
Phật nói, như
người luyện sắt, loại hết quặng đi thì làm đồ rất tốt : học đạo mà trừ khử dơ
bẩn trong tâm thì tức khắc thực hiện thanh tịnh. (Bài thứ 35).
(36)
Phật nói, thoát đường
ác mà được sinh làm người là khó, được làm người mà làm đàn ông là khó, làm đàn
ông mà đủ giác quan là khó, đủ giác quan mà sinh xứ trung tâm (29) là khó, sinh
xứ trung tâm mà gặp nhằm đời Phật là khó, gặp nhằm đời Phật mà gặp được đạo là
khó, gặp được đạo mà tín ngưỡng là khó, tín ngưỡng mà phát bồ đề tâm là khó,
phát bồ đề tâm mà không tu không chứng là khó (30) . (Bài thứ 36).
Ghi Chú (29)
Coi lại ghi chú
A/44 .
Ghi Chú (30)
a. Coi lại ghi chú
A/47 .
b. Bài này là do
bài 36 bản A, nhưng vừa thêm vừa thiếu. Thêm thì như cái khó chót nói
"không tu không chứng", tuy không sai gì, nhưng vẫn là cái ngữ khí
Thiền tông mà người tạo ra bản B lấy làm sở thích - dầu ngữ khí ấy đặt không sát
cũng cứ đặt. Bớt thì bớt điều "gặp quân vương đạo đức" và "sống
trong gia đình bồ tát" (coi lại các ghi chú A/45 và A/46 ) thật là đáng
trách.
(37)
Phật nói, đệ tử
(31) của Như lai sống cách Như lai mấy ngàn dặm mà nhớ giới luật của Như
lai,
thì đắc đạo chắc chắn; còn sống hai bên Như lai, thường thấy Như lai mà không theo
giới luật của Như lai, thì không bao giờ đắc đạo. (Bài thứ 37).
Ghi Chú (31)
Chính văn là Phật
tử, không thích hợp bằng chữ đệ tử của chính văn bài 38 bản A.
(38)
Phật hỏi một vị sa
môn, sinh mạng con người tồn tại trong bao lâu, thưa, trong vài ngày, Phật nói
ông chưa biết đạo. Phật lại hỏi một vị sa môn khác, sinh mạng con người tồn tại
trong bao lâu, thưa, trong một bữa ăn, Phật nói, ông cũng chưa biết đạo.
Phật
lại hỏi một vị sa môn khác nữa, sinh mạng con người tồn tại trong bao lâu,
thưa, trong hơi thở ra hay vào, Phật nói, hay thay, ông thật biết đạo. (Bài thứ
38).
(39)
Phật nói, học đạo
thì lời Như lai nói hãy nên tin theo. Như ăn mật (32) thì ở giữa hay hai
bên
đều ngọt, kinh pháp của Như lai cũng vậy. (Bài thứ 39).
Ghi Chú (32)
Coi lại ghi chú
A/47B .
(40)
Phật nói, sa môn
hành đạo thì đừng như trâu kéo (33) : thân hành đạo mà tâm không hành đạo. Nếu
tâm hành đạo thì cần gì chỉ có thân hành đạo (34) . (Bài thứ 40).
Ghi Chú (33)
Chính văn là ma
ngưu: trâu bò kéo cối xay bằng đá, hoặc trâu bò kéo đồ mài xát. Có người
còn
nói trâu bò kéo mà bị bịt mắt. Ở đây không nói gì nhiều, mà chỉ nói trâu
bò kéo
một cách miễn cưỡng, bị điều khiển.
Ghi Chú (34)
a. Câu này là
chuyển dịch, mà chuyển khá nhiều. Nếu dịch sát, như không dịch, là "thân
tuy hành đạo mà tâm đạo không hành; tâm đạo nếu hành thì cần gì hành đạo".
Ấy là chơi chữ và nói láy cho cầu kỳ - mà có cái hại cho thân hành đạo là không
cần thiết. Ý nghĩa nghiêm chỉnh thì phải hiểu và nói "tâm hành đạo thì
thân cũng hành theo".
b. Bài này bản A
không có.
(41)
Phật nói, người
hành đạo là như con trâu mang nặng, đi trong bùn sâu, mệt nhọc đến mấy cũng
không dám ngoái nhìn hai bên, mà phải rời khỏi bùn lầy mới được nghỉ ngơi. Sa
môn coi ái dục còn hơn bùn lầy, nên thẳng tắp một mạch mà hành đạo, mới có thể
thoát khỏi mọi sự khổ lụy. (Bài thứ 41).
(42)
Phật nói, Như lai
coi ngôi vị vương hầu như bụi bay qua lỗ hổng, coi vàng ngọc như ngói đá, coi
tơ lụa như giẻ rách, coi thế giới đại thiên như hạt cải, coi nước hồ a nâu như
dầu xoa chân (35) , xem các cách phương tiện (36) như đống ngọc ảo thuật, coi
cỗ xe vô thượng (37) như vàng lụa trong mộng, coi thánh đạo (38) như hoa
trước
mắt, coi thiền định như trụ tu di, coi niết bàn như thức dậy, coi cái trò phải
trái như sáu con rồng cùng múa, coi sự bình đẳng như đất đồng nhất (39) ,
coi
sự sinh diệt (40) của tất cả các pháp như cái cây trải qua bốn mùa (41) .
(Bài
thứ 42).
Ghi Chú (35)
Nước hồ a nâu:
nước thiêng. Dầu xoa chân: phòng rắn rít.
Ghi Chú (36)
Phương tiện:
phương cách thích nghi.
Ghi Chú (37)
Cỗ xe vô thượng:
vô thượng thừa.
Ghi Chú (38)
Chính văn là Phật
đạo, nhưng ở đây là bồ đề phần pháp (thánh đạo).
Ghi Chú (39)
Cũng như nói cái
lý tưởng đồng nhất.
Ghi Chú (40)
Chính văn là hưng
hóa (hiện ẩn), chính xác là sinh diệt (sinh ra mất đi): sinh diệt như cái cây
trải qua 4 mùa là sinh không thật sinh, diệt không thật diệt.
Ghi Chú (41)
Coi lại ghi chú
A/50 . Thật là quá rõ để thấy bài này của bản B là thêm - mà quan trọng là thêm
quá xa tầm mức của kinh này, và đó chính là nhược điểm, chưa nói những gì được
thêm ngó như cao sâu mà thật ra vẫn là ngữ khí cầu kỳ, khoa dụ. Tựu trung chỉ
có 2 điều đáng có mà thôi, đó là coi phải trái của cuộc đời chỉ như cái trò múa
rối cùng lúc của 6 con rồng, coi sự sinh diệt của vạn hữu chỉ như cái cây trải
qua bốn mùa.
Vu Lan 2537,
16-19/7