ĐẠI TẠNG KINH NHẬP MÔN
Giới Thiệu 139 Kinh Điển Phật Giáo
Hán dịch: Thích Ấn Hải, Thích Nguyện Quỷnh
Việt dịch: Thích Viên Lý
Viện Triết Lý Việt Nam và Triêt Học Thế Giới xuất bản 1999
KINH ĐIỂN NHẬT BỔN
106. Thắng Man Kinh Nghĩa Sớ
1 quyển
Do Thái tử Thánh Đức (Shokotu) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2185
Đây là sách chú giải về cuốn “Thắng Man Kinh” (Srimala-sutra) (số 16),
và cuốn được coi là tác phẩm sớm nhất trong số ba cuốn “Tam Kinh
Nghĩa Sớ” do Thái Tử Thánh Đức biên soạn.
Cuốn biên niên sử “Nhật Bổn Thư
Ký” nói rằng Thái Tử Thánh Đức đã thuyết giảng về Thắng Man Kinh
cho Nữ Thiên Hoàng Thôi Cổ (Suiko) nghe. Người ta cho rằng Thái Tử
Thánh Đức đã chọn cuốn kinh này là vì nhân vật chính trong Thắng Man
Kinh là một phụ nữ – tức là bà Thắng Man (Srimala) – trong khi bà Thôi
Cổ là vị thiên hoàng đầu tiên trong lịch sử Nhật Bổn. Về sau, những
lời thuyết giảng của Thái Tử Thánh Đức được thu thập lại thành
cuốn sách này.
Dù sao chăng nữa, đây là tác
phẩm đầu tiên do một người Nhật viết.
107. Duy Ma Kinh Nghĩa Sớ
5 quyển
Do Thái Tử Thánh Đức soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2186
Đây là sách chú giải về cuốn “Duy Ma Kinh” (Vimalakirtirdesa-sutra) (số
27), và là một trong ba cuốn “Tam Kinh Nghĩa Sớ” do Thái Tử Thánh Đức
biên soạn. Người ta cho rằng một trong những lý do quan trọng để
chú
giải là vì nhân vật chính Duy Ma (Vilamakirti) không phải là một
tỳ
kheo xuất gia là một bồ tát tại gia, tương tự như trường hợp của
chính Thái Tử.
Trước đây có những nghi vấn về
chuyện có phải sách này thực sự do Thái Tử Thánh Đức soạn hay
không. Tuy nhiên, ngày nay cũng không có chứng cớ xác thực nào cho
thấy sách này do ai khác viết ra chứ không phải do tác giả của
hai
cuốn khác trong “Tam Kinh Nghĩa Sớ” viết. Vì vậy, điều hợp lý nhất
là có thể tin rằng Thái tử Thánh Đức là tác giả cả ba cuốn đó.
108. Pháp Hoa Nghĩa Sớ
4 quyển
Do Thái Tử Thánh Đức soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2187
Đây là sách chú giải về “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh” (số 12), và là một
trong ba cuốn “Tam Kinh Nghĩa Sớ” do Thái Tử Thánh Đức biên soạn. Tuy
tác giả có tham khảo những lời chú giải Hán văn về Pháp Hoa Kinh,
nhưng trong sách này rõ ràng là có những ý kiến riêng của chính ông.
Vì vậy có thể coi rằng đây là cuốn sách giải thích về tư tưởng Phật
giáo đầu tiên do một người Nhật viết.
Đặc biệt là sự đánh giá của
tác giả đối với nội dung của Pháp Hoa Kinh như là “Nhất Đại Thừa”
đã tạo ảnh hưởng sâu rộng đối với Phật giáo Nhật Bổn sau này. Thật
sự trong lịch sử Phật giáo Nhật Bổn, Pháp Hoa Kinh đã được coi
là
một trong những kinh điển quan trọng nhất.
109. Bát Nhã Tâm Kinh Bí Kiện
1 quyển
Do Không Hải (Kukai) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2203-A
Ngày nay cuốn “Bát Nhã Tâm Kinh” (gọi tắt là “Tâm Kinh”) vẫn còn được
nhiều tông phái Phật giáo Nhật Bổn sử dụng, và trong những thế kỷ
qua nó đã được nhiều người viết chú giải. Nhưng đặc điểm của cuốn
này – nhan đề có nghĩa là “bí kíp khai mở Bát Nhã Tâm Kinh” – được
viết từ lập trường của phái Chân Ngôn (Shingon) của Phật Giáo, và nó
xác định rằng Tâm Kinh đích thực là một kinh điển Mật giáo.
Đầu tiên, Không Hải bàn về đại
ý, nhan đề và những bản dịch khác nhau của cuốn kinh này từ lập
trường của Mật giáo, kế đó ngài phân chia nó thành 5 phần và giải
thích về mỗi phần. Theo như lời ghi chú ở cuối sách thì cuốn sách
chú giải này được viết do lệnh của thiên hoàng đương thời khi nước
Nhật đang bị bệnh dịch hoành hành.
110. Đại Thừa Pháp Tướng Nghiên
Thần Chương
5 quyển
Do Hộ Mạng (Gomyo) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2309
Năm 830, Thiên Hoàng Thuần Hòa (Junna) ra lệnh cho mỗi tông phái Phật
giáo đệ trình cho ông một bản luận thuyết trình bày sơ lược về
những điều cốt yếu trong giáo lý của họ. Sáu tác phẩm trình lên cho
vị thiên hoàng được gọi chung là “Thiên Trường Lục Bổn Tông Thơ,” và
đây là một trong những cuốn sách đó, do tông phái Pháp Tướng trình
bày.
Tác giả Hộ Mạng là học giả
Phật giáo nổi tiếng nhất vào đầu Thời Đại Bình An (Heian) ở Nhật
và ông viết rất nhiều sách, nhưng tác phẩm còn sót lại của ông chỉ
còn cuốn này. Tác phẩm này quan trọng không những vì nó là một
trong “Lục Bổn Tông Thơ” mà còn vì giá trị của nó để dùng làm tài
liệu nghiên cứu về tư tưởng của phái Duy Thức Nhật Bổn.
111. Quán Tâm Giác Mộng Sao
3 quyển
Do Lương Biến (Ryohen) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2312
Chữ “Quán Tâm” (quan sát cái tâm) trong nhan đề muốn nói rằng không có
hiện tượng ngoại tại nào tồn hữu một cách độc lập đối với tâm trí
con người, và “Giác Mộng” (thức dậy từ giấc mộng) ngụ ý dùng
trí
tuệ quán sát để tỉnh dậy từ giấc mộng của sự tồn hữu mê muội để
giác ngộ chân lý.
Nói cách khác, sách này trình
bày một sự dung hòa giữa tư tưởng của phái Duy Thức với Phật giáo
Đại Thừa, từ lập trường của phái Duy Thức, được viết ra để đối
kháng với trường phái “Tân Phật Giáo” trong thời đại Liêm Thương
(Kamakura)
ở Nhật Bổn. Vì vậy sách này có thể được coi như một kinh điển nhập
môn về tư tưởng của phái Duy Thức.
Tác giả Lương Biến là người
thông đạt tư tưởng của các phái Hoa Nghiêm Tông, Luật Tông và Tịnh Độ
Tông, cho nên những lý luận trong sách này đôi khi có vể thiếu chính
thống đối với phái Duy Thức.
112. Luật Tông Cương Yếu
2 quyển
Do Ngưng Nhiên (Gyomen) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2348
Tác giả sách này còn có một cuốn khác nhan đề là “Bát Tông Cương
Yếu” (số 136), trong đó nói đại cương về 6 tông phái Phật giáo Nhật
Bổn trong thời đại Nại Lương (Nara) và 2 tông phái trong thời đại Bình
An (Heina). Trong khi cuốn “Luật Tông Cương Yếu” này chỉ bàn về phái
Luật Tông (Risshu), và nói chi tiết về những giáo lý và lịch sử của
phái này.
Tác giả thuyết minh về địa vị
của giới luật trong việc tu hành Phật giáo, và dùng những từ ngữ
cụ thể và lập trường của một người tu hành để bàn về nhiều hình
thức giới luật, từ những giới luật của phái Nguyên Thủy cho tới
phái Đại Thừa, và nói về sự lưu truyền của từng điều khoản trong
bộ giới luật về tu hành, từ Ấn Độ truyền qua Trung Hoa rồi truyền
tới Nhật Bổn, đồng thời nói về những thay đổi từ xưa cho tới thời
của tác giả.
113. Thiên Thai Pháp Hoa Tông Nghĩa Tập
1 quyển
Do Nghĩa Chân (Gishin) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2366
Vào đầu Thời Đại Bình An
(khoảng năm 830), Thiên Hoàng Thuần Hòa (Junna) ban sắc lệnh cho mỗi
tông phái Phật giáo đệ trình cho ông một cuốn luận thuyết nói đại
cương về những giáo lý chính yếu của họ. Những sách đó đã được
gọi chung là “Lục Bổn Tông Thơ,” và cuốn “Thiên Thai Pháp Hoa Tông
Nghĩa Tập” này nằm trong số đó. Tác phẩm này – thường được gọi tắt
là “Thiên Thai Tông Nghĩa Tập” – nói sơ lược về những giáo nghĩa của
tông phái Thiên
Nội dung sách này giải thích ngắn gọn và rõ ràng về đa số những
giáo nghĩa chính yếu của phái Thiên Thai, vì vậy nó rất tiện để
độc giả làm quen với những giáo nghĩa của phái này.
114. Hiển Giới Luận
3 quyển
Do Tối Trừng (Saicho) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2376
Tác giả Tối Trừng cực lực chống đối giới luật tu hành của phái
Tiểu Thừa (Hinayàna) và ông chủ trương rằng nên theo giới luật của
phái Đại Thừa (Mahàyanà). Để hỗ trợ những ý kiến của mình, ông đã
trình lên triều đình Nhật cuốn sách “Sơn Gia Học Sinh Thức” (số
115),
gồm ba phần, và nói về những qui luật của giới tăng sĩ thuộc phái
Thiên Thai. Nhưng vì bị 6 tông phái Phật giáo thời Nại Lương chống đối
mạnh mẽ, cho nên Tối Trừng không nhận được sự ủng hộ của triều đình
đối với những pháp qui đó, vì thế ông đã viết cuốn sách này để
phản công lại những lý luận của các tông phái thời Nại Lương chống
đối bốn điều khoản trong phần thứ ba của cuốn “Sơn Gia Học Sinh
Thức.”
115. Sơn Gia Học Sinh Thức
1 quyển
Do Tối Trừng (Saicho) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2377
Sách này bao gồm những qui tắc do Tối Trừng, người sáng lập tông
phái Thiên Thai ở Nhật Bổn, đặt ra cho các tăng-học-sinh trẻ tuổi tu
tập trong các tự viện của phái này tuân thủ.
Đoạn thứ nhứt gồm 6 đề mục và
liệt kê những qui luật dành cho hai tăng-học mà triều đình mỗi năm
tiến cử họ đi học với phái Thiên
Vào thời của Tối Trừng, các tăng sĩ
cần phải qui theo những giới luật của Tiển Thừa thì mới được triều
đình chính thức nhìn nhận là tăng sĩ. Tối Trừng phản đối điều này,
và ông đề xướng hãy thay thế bằng những giới luật Đại Thừa căn cứ
vào “Phạm Võng Kinh” (số 46).
Sách này ghi lại ba thỉnh
nguyện thư mà Tối Trừng đệ trình lên triều đình để xin chấp thuận
những giới luật Đại Thừa.
116. Bí Tàng Bảo Thược
3 quyển
Do Không Hải (Kukai) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2426
Vào đầu thời đại Bình An (khoảng năm 830) Thiên Hoàng Thuần Hòa
ra
lệnh cho đại biểu của mỗi tông phái Phật giáo hãy dâng lên cho ông
một bản luận thuyết trong đó tóm lược những giáo nghĩa của tông
phái họ. Trong số 6 bản luận thuyết trình lên thiên hoàng có “Thập
Trụ Tâm Luận” (Luận Về 10 Cấp Bậc Của Tâm) (thập trú tâm giáo án)
(Đại Chánh Đại Tạng số 2425) do Không Hải viết, phái Chân Ngôn
(Shingon). Tuy nhiên, bộ sách này quá đồ sộ so với những bản luận
thuyết của các tông phái khác dâng lên thiên hoàng, vì vậy Không
Hải
được yêu cầu hãy trình lên một bản luận thuyết giản lược hơn. Kết
quả đưa tới tác phẩm “Bí Tàng Bảo Thược” này (nhan đề có nghĩa là
“chìa khóa quí báu mở vào kho tàng bí mật”).
Phương pháp của Không Hải để
làm sáng tỏ lập trường của phái Chân Ngôn là thiết lập một hệ
thống phê bình gồm “10 cấp bậc của tâm,” (thập trú tâm giáo phán)
không những bàn về những tông phái Phật giáo khác nhau mà còn bàn
cả tới những tôn giáo khác ở Ấn Độ và Trung Hoa; và tác giả xếp
hạng phái Chân Ngôn ở cấp bậc cao nhất trong tất cả các tông phái.
117. Biện Hiển Mật Nhị Giáo Luận
2 quyển
Do Không Hải soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2427
Nhan đề có nghĩa là “luận về những khác biệt giữa hai giáo lý hiển
giáo và mật giáo (của đạo Phật)” và thường được gọi tắt là “Nhị
Giáo Luận.” Như nhan đề đã ngụ ý, nội dung là sự so sánh những khác
biệt về phẩm chất giữa hai phái “Hiển Giáo” và “Mật Giáo.” Không
Hải kết luận rằng giáo nghĩa của Mật Giáo cao siêu hơn.
Những điểm bàn luận trong sách
này là: Các vị Phật đã biểu hiện hai loại giáo nghĩa nội dung của
các giáo nghĩa, thời gian cần thiết để thành Phật, và những lợi
ích từ hai giáo lý khác nhau. Qua những lời trích dẫn từ nhiều kinh
điển. Không Hải chứng minh rằng Mật Giáo siêu việt hơn Hiển Giáo trong
tất cả những điểm nêu trên.
118. Tức Thân Thành Phật Nghĩa
1 quyển
Do Không Hải soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2428
Trước thời của Không Hải, Phật giáo Nhật Bổn cho rằng người ta
có
thể trở thành Phật sau khi đã trải qua một thời gian rất dài, với
nhiều kiếp luân hồi sinh tử; người Nhật gọi điều đó là “tam kiếp
thành Phật” (ba kiếp thành Phật). Nhưng trong sách này Không Hải
nêu ra
ý kiến rằng người ta có thể trở thành Phật ngay trong nhục thân này,
nghĩa là “tức thân thành Phật.” Vì vậy, tác phẩm của ông minh xác
lập trường của phái Chân Ngôn chủ trương rằng việc tu hành có thể
dẫn tới “tức thân thành Phật.”
Khi xét tới sự kiện cuốn luận
thuyết “Tức Thân Thành Phật Nghĩa” của Không Hải đã tạo ảnh hưởng
quan trọng đối với Phật giáo Nhật Bổn về sau này, người ta có
thể
nói rằng nó là một tác phẩm hết sức trọng yếu về mặt triết
lý.
119. Thanh Tự Thực Tướng Nghĩa
1 quyển
Do Không Hải (Kukai) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2429
Trong giáo lý của phái Chân Ngôn có thuyết cho rằng những hành vi của
thân thể, của ngôn ngữ, và của ý thức nhân loại, trên bản chất
thì
tương ứng với những hành vi của một vị Phật. Do đó ba loại hành vi
này được gọi là “thân mật,” “khẩu mật,” “ý mật,” và chúng được gọi
chung là “tam mật.” Cuốn “Thanh Tự Thực Tướng Nghĩa” (Ý Nghĩa của Âm
Thanh, Chữ và Thực Thể) này nói về “bí mật của ngôn ngữ.”
Trích dẫn từ cuốn “Đại Nhựt
Kinh” (mahavairocana-sutra) (số 39), Không Hải nói rằng “thanh” và “từ”
trong thực chất là những biểu hiện của đức tánh Đại Nhựt Như Lai
(Mahavairocana), và Đại Nhựt Như Lai chính là hiện thân của chân lý;
vì vậy những ngôn (hay “chú ngữ” - mantras) thực sự là những biểu
hiện của chân lý. Sự thật là danh hiệu của phái Chân Ngôn (Shingon)
rút ra từ quan điểm cho rằng từ ngữ chính là chân lý.
120. Nghĩa Chữ “Hùm”
1 quyển
Do Không Hải (Kukai) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2430
Chữ “ ” là phiên âm theo Hán tự của chữ “Hum” trong Phạn ngữ, đây là
chữ cuối cùng trong các chữ của Phạn ngữ, trái ngược với chữ
“a”
là chữ cái đầu tiên.
Cuốn này nhan đề là “Nghĩa Chữ
‘Hum’,” bàn về những ý nghĩa phiến diện và ý nghĩa thâm sâu của chữ
đó, và sách này được coi là kinh điển mà tín đồ của phái Chân Ngôn
cần phải đọc.
Những ý nghĩa phiến diện của
chữ “hùm” được bàn từ lập trường của Hiển Giáo, trong khi ý nghĩa
thâm sâu của chữ này được bàn từ quan điểm của Mật Giáo.
121. Ngũ Luân Cửu Tự Minh Bí Mật Thích
1 quyển
Do Giác Hoàn (Kukuhan) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2514
Vào cuối Thời Đại Bình An (Heian), là thời của tác giả sách “Ngũ
Luân Cửu Tự Minh Bí Mật Thích” (nghĩa là “cách giải thích bí mật
về năm bánh xe và chú ngữ chín chữ”), ở Nhật Bổn ngày càng nhiều
người tin thuyết vãng sanh vào cõi Tây phương cực lạc. Trong sách này
tác giả dùng lập trường của Mật Giáo để nói rằng Đại Nhựt Như Lai
(Mahavaicorana) và Phật A Di Đà thật sự chỉ là một, rằng Mật Nghiêm
Tịnh Độ (Ghanavyuha) của Đại Nhựt Như Lai và Tây phương cực lạc của
Phật A Di Đà cũng cùng là một nơi, và rằng được tái sanh ở Tây
phương cực lạc cũng giống như đạt tới phật vị.
Chữ “Ngũ Luân” trong nhan đề là
nói về năm nguyên tố của tất cả những hiện tượng nơi trần thế, gồm
“thổ, thủy, hỏa, phong, và không” (đất, nước, lửa, gió và không
khí);
và chữ “Cửu Tự” là chú ngữ (mantra) của Phật A Di Đà, là chữ
Phạn
gồm 9 vần. Tác giả muốn nói rằng, vì ngũ luân và chính chữ này là
giống hệt nhau, cho nên Đại Nhựt Như Lai và Phật A Di Đà cũng hoàn
toàn giống nhau.
Sách này được coi là trọng yếu
vì nó trình bày quan điểm của Mật Giáo đối với Phật A Di Đà và
cảnh giới Tây phương cực lạc.
122. Mật Nghiêm Viện Phát Lộ Sám Hối Văn
1 quyển
Do Giác Hoàn (Kakuhan) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2537
Giác Hoàn, tác giả sách này và là người sáng lập chi nhánh “Tân
Nghĩa” của phái Chân Ngôn, đã từ quan năm 41 tuổi, tự giam mình trong
một gian phòng tại Chùa Mật Nghiêm để im lặng tham thiền suốt 1,500
ngày. Sách này được viết trong thời kỳ đó bằng thể thơ, gồm 44 câu
thất ngôn.
Có thể nói rằng hành vi này
là để bày tỏ sự “sám hối tuyệt đối,” trong đó tác giả sám hối về
ác nghiệp không những của chính mình mà cả tới những ác nghiệp của
người khác. Giác Hoàn buồn lòng về những hành vi thiếu đạo đức của
các tăng sĩ đương thời, cho nên có lẽ ông muốn hành trình như vậy để
cảnh tỉnh những người trong giới Phật giáo.
Cho tới ngày nay các tăng sĩ
thuộc những giáo phái bắt nguồn từ phái Tân Nghĩa vẫn tụng đọc kinh
sách này ít nhất một lần mỗi ngày.
123. Hưng Thiền Hộ Quốc Luận
3 quyển
Do Vinh Tây (Eisai) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2543
Nhan đề có nghĩa là “luận về truyền bá Thiền để bảo vệ quốc
gia,”
nội dung chủ trương rằng sự nhìn nhận Thiền như là một tông phái
Phật giáo độc lập là điều cần thiết đối với cả Phật giáo lẫn sự
thịnh vượng của quốc gia. Tác giả Vinh Tây đã đem giáo lý của phái
Lâm Tế từ Trung Hoa truyền vào Nhật Bổn, vì vậy ngài bị phái Thiên
Thai và các phái Phật giáo truyền thống khác của Nhật cực lực công
kích. Để trả lời họ, ngài viết tác phẩm này, nhấn mạnh rằng
việc
truyền bá Thiền chính là để giúp bảo vệ nước Nhật.
Toàn bộ tác phẩm gồm 10 chương,
và tác giả trích dẫn những kinh điển Phật giáo để hỗ trợ cho
tất
cả những luận cứ của ngài. Một bản tiểu sử đơn giản về Vinh Tây do
một người khuyết danh viết đã được thêm vào phần tựa của sách
này.
124. Phổ Khuyến Tọa Thiền Nghi
1 quyển
Do Đạo Nguyên (Dogen) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2580
Nhan đề có nghĩa là “khuyến khích mọi người tọa thiền,” do Đạo
Nguyên, vị khai tổ của phái Tào Động (Soto) ở Nhật Bổn, viết vào năm
1227 ngay sau khi ngài trở về Nhật từ Trung Hoa. Nội dung nói rõ
về ý
nghĩa đích thực của tọa thiền và nhấn mạnh sự quan trọng của
việc
thực hành môn này.
Đạo Nguyên coi rằng tọa thiền
không phải là một phương tiện để khai ngộ kiến tánh mà chính là bao
gồm tất cả sự thực hành Phật giáo, và ngài chủ trương rằng việc
thực hành tọa thiền tương đương vói chính trạng thái của một vị
Phật. Sách này được viết để phổ biến những ý kiến của tác giả về
tọa thiền thuần túy, và nó đã trở thành nền móng để thành lập
phái Tào Động.
Đây là một tác phẩm ngắn, chỉ
gồm có 786 chữ; tuy nhiên, nội dung của nó không phải là dễ lý
giải.
125. Chánh Pháp Nhãn Tàng
95 quyển
Do Đạo Nguyên (Dogen) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2582
Nhan đề có nghĩa là “con mắt và kho tàng của đạo pháp chân chánh,”
là kiệt tác văn chương của Đạo Nguyên, vị khai tổ phái Tào Động của
Thiền Tông, và được viết bằng ngôn ngữ Nhật Bổn (thay vì bằng Hán
văn cổ điển), nội dung nói về những giáo nghĩa của phái này. Đạo
Nguyên đã chủ ý viết một bộ sách gồm 100 quyển, nhưng sau, khi chỉ viết
được 95 quyển thì ngài lâm bệnh và viên tịch.
Để làm sáng tỏ lập trường của
mình, Đạo Nguyên đã bàn luận tỉ mỉ về những khác biệt giữa những
quan điểm của ngài với những quan điểm của các tông phái Phật giáo
khác; vì vậy người ta có thể hiểu rõ những tư tưởng của ngài
qua
tác phẩm này.
Nhan đề “Chánh Pháp Nhãn Tạng”
là ý nói những giáo lý chân chánh của Đức Phật Thích Ca trong
đời
ngài. Trong bộ sách, tất cả những khía cạnh của giáo lý Phật
giáo,
của các kinh điển, lối sống và tu trì, được trình bày từ lập
trường của tác giả.
Bộ sách này được đánh giá rất
cao, và được coi là tác phẩm triết học xuất sắc nhất của Nhật Bổn.
126. Tọa Thiền Dụng Tâm Ký
1 quyển
Do Dinh Sơn Chiêu Cẩn (Keizan Jokin) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2586
Nhan đề có nghĩa là “ghi chép những vấn đề cần thận trọng khi
tọa
thiền,” do Dinh Sơn Chiêu Cẩn thuộc phái Tào Động Nhật Bổn soạn
– tác
giả được vinh danh là “Thái Tổ” của phái này và cũng là người
thành lập ngôi chủa Tổng Trì Tự. Nội dung bàn luận về mục đích và
ý nghĩa của tọa thiền, và là một Luận điển không thể thiếu đối
với tăng sĩ của phái Tào Động.
Sách này nói về những vấn đề
hết sức thực tiễn như: sự quan trọng, cần phải ăn uống điều độ để
giữ gìn sức khỏe, và cấm mặc y phục quá sang trọng hoặc nhơ bẩn,
không nên đam mê những trò chơi như ca vũ nhạc. Ngoài ra, nội dung
nói
thêm rằng sự tọa thiền thực hành trong phái Tào Động không phải chỉ
nằm trong ba điều “giới, định, huệ” mà thật ra còn bao gồm hết
thảy
ba điều đó.
127. Tuyển Trạch Bản Nguyện Niệm Phật Tập
1 quyển
Do Nguyên Không (Genku) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2608
Sách này thường được gọi tắt là “Tuyển Trạch Tập,” là tác phẩm
chính yếu của Nguyên Không, vị khai tổ của tông phái Tịnh Độ Nhật
Bổn, vì vậy được coi là kinh điển căn bản của phái này.
Sách chia thành 16 chương; nó căn
cứ vào những trích dẫn từ ba kinh điển căn bản của phái Tịnh Độ
(số 17, 18, 19), và “Quán Kinh Sớ” (số 73) của Thiện Đạo, và nhiều
kinh sách liên hệ khác, để thuyết minh rằng hành động niệm Phật sẽ
dẫn tới sự tái sanh vào cõi Tịnh Độ.
Vì sách này có những lời phê
bình những tông phái Phật giáo truyền thống của Nhật Bổn thành lập
vào các thời đại Nại Lương và Bình An, và trình bày lập trường
cương yếu của phái Tịnh Độ, cho nên nó bị các tông phái truyền
thống
đó công kích kịch liệt; và nhiều sách phản bác quan điểm của Nguyên
Không đã xuất hiện từ khi ông còn tại thế.
128. Hiển Tịnh Độ Chân Thật Giáo
Hành
Chứng Văn Loại
6 quyển
Do Thân Loan (Shinran) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2646
Sách này thường được gọt tắt là “Giáo Hành Tín Chứng” (nghĩa
là
“nói về ngộ”), là tác phẩm chủ yếu của Thân Loan, và cũng là
kinh
điển căn bản của chi phái Chân Tông thuộc Tịnh Độ Tông.
Đặc điểm của tác phẩm này là
chứa đựng nhiều trích dẫn từ những kinh điển Phật giáo để làm sáng
tỏ những giáo lý của Chân Tông; đồng thời tác giả cố gắng tránh đưa
thêm vào đó những ý kiến riêng của mình. Vì vậy, có thể nói rằng
trong sách này Thân Loan nỗ lực hệ thống hóa tư tưởng của ngài
bằng
cách trích dẫn từ những kinh điển Phật giáo thời trước.
Điều đáng nói là những câu kệ
tụng “Chánh Tín Niệm Phật Kệ” được Liên Như (Rennyo), vị tổ đời thứ
tám của phái Chân Tông, tuyển chọn để cho các tín đồ của phái
này
tụng đọc hằng ngày (cho tới ngày nay vẫn tiếp tục), là rút tra từ
đoạn kết luận của chương nói về “Hành” trong sách này.
129. Thán Dị Sao
1 quyển
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2661
Sau khi Thân Loan, vị khai tổ phái Tịnh Độ, viên tịch, các đệ tử của
ngài có những ý kiến khác nhau về cách giải thích khái niệm chữ
“tín” trong giáo lý phái Chân Tông. Vì vậy có người soạn ra sách này
– để chỉ trích những xung khắc đó và cũng để giải quyết những ghi
vấn của các đệ tử phái Chân Tông bằng cách ghi lại những lời dạy
của Thân Loan lúc sanh tiền và làm sáng tỏ ý nghĩa đích thực của
“tha lực bản nguyện.”
Sách này được chia thành 18
chương, 10 chương đầu ghi chép những lời dạy của Thân Loan mà tác giả
đã được nghe trực tiếp. Tám chương còn lại bàn luận và phê phán
những ý kiến trái ngược.
Đây có thể là tác phẩm Phật
giáo nổi tiếng nhất của Nhật Bổn và đã được dịch ra nhiều ngoại
ngữ; tuy nhiên, mãi cho tới thời đại Minh Trị (Meiji) thì sác này mới
được nhiều người trong dân gian biết tới.
Có những thuyết khác nhau về
chuyện ai là tác giả; nhưng ngày nay phần đông tin rằng do Duy Đan
(Yuien) soạn ra.
130. Liên Như Thượng Nhơn Ngự Văn
5 quyển
Do Đan Như Quang Dung (Ennyo Koyu) thu thập
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2668
Nhan đề có nghĩa là “văn thư của ngài Liên Như” và cũng được gọi tắt
là “Ngự Văn Chương” hoặc “Ngự Văn,’’ là một tuyển tập gồm những thư
từ của Liên Như (Rennyo), vị tổ thứ tám của chi phái Chân Tông thuộc
Tịnh Độ Tông, gửi cho các tín đồ để bàn về những giáo lý của Chân
Tông, và gồm có 80 bức thư, chia thành 5 quyển.
Người ta vẫn chưa biết chắc là
ai là người thu thập những bức thư này, nhưng nhiều người tin rằng vị
tổ thứ chín là Thực Như (Jitsunyo) đã sai con trai ông là Đan Như
(Ennyo) góp lại thành sách.
Nội dung sách này thuộc loại
dễ hiểu, và ngày nay vẫn còn được tất cả các chi phái của Chân Tông
dùng để tụng đọc và làm đề tài để thuyết giảng giáo lý. Vì
vậy,
nhiều đoạn văn trong sách đã trở thành quen thuộc đối với độc giả
Nhật Bổn hiện đại.
131. Vãng Sanh Yếu Tập
3 quyển
Do Nguyên Tín (Genshin) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2682
Đây là một tuyển tập gồm những đoạn văn quan trọng lựa từ nhiều kinh
điển Phật giáo liên quan tới những gì nói về vãng sanh nơi Tây phương
cực lạc của Đức Phật A Di Đà, do Nguyên Tín (Genshin), một vị tăng sĩ
trụ trì tại chùa Huệ Tâm, Viện Eshin-in ở núi Hiei (Huê Sơn) thu
thập.
Sách này được coi là nguồn tư
liệu của tư tưởng Phật giáo bàn về cảnh giới cực lạc và địa
ngục,
và đã tạo ảnh hưởng quan trọng đối với hậu thế, chẳng những trong
giới tín đồ Phật giáo và giới nghiên cứu triết học mà còn cả trong
những địa hạt văn chương và nghệ thuật.
Một điều nữa cần nên ghi nhận
là tư tưởng về “niệm Phật” (nenbutsu) đề ra trong sách này đã dẫn
tới sự thành lập nhiều chi phái khác nhau của Tịnh Độ như là những
tông phái độc lập. Vì vậy, nó được coi là giữ địa vị quan trọng
nhất trong số những kinh điển cơ bản của Tịnh Độ Tông.
132. Lập Chánh An Quốc Luận
1 quyển
Do Nhựt Liên (Nichiren) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2688
Nhan đề có nghĩa là “luận về chính sách tạo bình an cho quốc gia,”
là tác phẩm tiêu biểu của Nhựt Liên, vị khai tổ của tông phái Nhựt
Liên, và cũng là một bản luận thuyết viết cho một vị Sứ Quân Nhật
Bổn đương thời.
Nhựt Liên mở đầu sách với lời
bàn luận về nguyên nhân gây ra những thiên tai và nhân họa khiến cho xã
hội rối loạn, rồi ngài xác quyết rằng những tai họa đó sẽ biến
mất và quốc gia sẽ thái bình nếu toàn quốc tin tưởng vào Kinh
Pháp
Hoa (số 12).
Nhựt Liên cảm thấy sự nguy hiểm
và tin rằng những tai ách xảy ra là vì trong nước thiếu những đạo
pháp chân chánh, và sợ rằng nước Nhật sẽ có thể bị ngoại quốc xâm
lăng rồi cuối cùng bị hủy hoại. Ngài mạnh mẽ chỉ trích phái Tịnh
Độ Tông, và đưa ra những lời trích dẫn từ nhiều kinh điển để hỗ trợ
cho quan điểm của mình. Vì hậu quả của sách này Nhựt Liên đã bị lưu
đầy ra đảo Y Đậu (Izu).
133. Khai Mục Sao
2 quyển
Do Nhựt Liên (Nichiren) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2689
Nhựt Liên viết ra cuốn sách này – một trong những tác phẩm tiêu
biểu
của ngài – do sự thúc đẩy của những kinh nghiệm đau lòng mà ngài đã
trải qua trong thời gia bị lưu đầy trên các đảo Y Đậu (Izu) và Tả Độ
(Sado). Nội dung đưa ra sự tái thẩm định của tác giả đối với Kinh
Pháp Hoa (số 12).
Chữ “Khai Mục” trong nhan đề
nghĩa là “mở mắt,” ngụ ý rằng mục đích của sách này là để dẫn
dắt những người còn ở trình độ thấp về phát triển tinh thần có
thể hiểu được tinh túy của Kinh Pháp Hoa cao siêu.
Vì sách được viết bằng Nhật
văn thay vì bằng Hán văn, cho nên người ta tin rằng Nhựt Liên viết tác
phẩm này với chủ ý cho các đệ tử tại gia của ngài đọc.
134. Quán Tâm Bổn Tôn Sao
1 quyển
Do Nhựt Liên (Nichiren) soạn
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2692
Sách này được coi là kinh điển quan trọng nhất của phái Nhựt Liên
Tông. Trong sách Nhựt Liên giảng giải phương pháp và giáo nghĩa về
“quán tâm bổn tôn,” nghĩa là tụng đọc “đề mục” (daimoku) khi đối diện
với đối tượng thờ phụng.
Nhựt Liên tin rằng chân lý căn
bản trong vũ trụ, thể hiện trong tâm, bao gồm trong “Diệu Pháp Liên Hoa
Kinh” (số 12) và năm chữ Hán này hàm chứa mọi điều. Vì vậy trong
sách ngài xác quyết rằng bằng cách tụng đọc “đề mục” – đọc câu “Nam
mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh” – người ta có thể hòa nhập vào thế giới
của Phật trong khi vẫn giữ sắc thân (xác phàm).
135. Phụ Mẫu Ân Trọng Kinh
1 quyển
Đại Chánh Đại Tạng Kinh số 2587
Nhan đề có nghĩa là “kinh nói về công ơn thâm trọng của cha mẹ,” nội
dung mô tả tình yêu thương của cha mẹ đối với con cái sâu xa như thế
nào, rồi tác giả nói rằng để đền ơn cha mẹ người ta cử hành lễ Vu
Lan, tụng đọc và sao chép “Vu Lan Bồn Kinh” (số 36).
Xét từ hình thức khác thường
và nội dung của nó, kinh này thường được coi xuất xứ từ Trung Hoa, và
có thể là do bắt nguồn từ ảnh hưởng của Khổng giáo đối với Phật
giáo. Dù sao, tác phẩm này rất phổ biến, thường được trích dẫn
trong những tác phẩm văn chương, và nhiều người đã viết những bản
bình luận về nó.
136. Bát Tông CươngYếu
2 quyển
Do Ngưng Nhiên (Gyonen) soạn
Nhan đề có nghĩa là “những điều cốt yếu của tám tông phái,” nội
dung nói giản lược về lịch sử và giáo lý của tám tông phái Phật
giáo chính yếu ở Nhật Bổn vào thời của tác giả, đó là 6 tông phái
du nhập vào Nhật Bổn ở Thời Đại Nại Lương và 2 tông phái do Tối
Đằng (Saicho) và Không Hải (Kukai) đưa vào Nhật Bổn trong Thời Đại
Bình An. Vì vậy có thể nói rằng tác phẩm này là sách nhập môn đưa
vào Phật giáo Nhật Bổn.
Quyển thượng gồm một bài mở
đầu và những phần nói về phái Câu Xá tông (Kusha), Thành Thật tông
(Jojitsu), và Luật tông. Quyển hạ nói về các phái Pháp Tướng tông
(Hosso), Tam Luận tông (Sanron), Thiên Thai tông (Tendai), Hoa Nghiêm tông
(Kegon) và Chân Ngôn tông (Shingon), kế tiếp là những lời bình luận đơn
giản về hai phái Thiền tông và Tịnh Độ tông.
137. Tam Giáo Chỉ Qui
3 quyển
Do Không Hải (Kubai) soạn
Tạng Ngoại
Sách này của Không Hải (Kukai), vị khai tổ của phái Chân Ngôn
(Shingon), có thể được coi như tuyên ngôn của tác giả về chí hướng
xuất gia đi tu, và cũng là tác phẩm đầu tiên của ngài. Nhan đề
có
nghĩa là “chỉ về những mục tiêu của ba giáo lý.”
Bản sơ thảo của sách lúc đầu
đặt tên là “Lung Cổ Chỉ Qui” (“chỉ về mục tiêu cho người điếc và
mù”), bắt đầu viết khi tác giả 18 tuổi, và tới khi 24 tuổi ngài
hoàn thành bản đã sửa chữa này.
“Tam Giáo” là ba tôn giáo Nho
giáo, Lão giáo và Phật giáo. Trong sách này Không Hải bàn luận và
so sánh những ưu và khuyết điểm của chúng, và xác quyết rằng việc
trở thành một tăng sĩ Phật giáo mới đích thực là biểu hiện lòng
hiếu thảo – ngài muốn biện hộ cho hành động đi tu của mình đối với
lời chỉ trích của những người trong gia đình.
138. Mạt Pháp Đăng Minh Ký
1 quyển
Tạng Ngoại
Nhan đề có nghĩa là “luận về ngọn đèn ở thời mạt pháp.” Thời
trước có những người cho rằng sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt,
việc tu trì những giáo lý chân chính của ngài sẽ dần dần bị sao
lãng, trải qua ba thời kỳ suy thoái từ “chánh pháp” tới “tượng
pháp”
và “mạt pháp”. Trong sách này biện luận rằng vì những ngày mạt
pháp đã gần kề, đừng nên loại bỏ những tăng sĩ nào không tu trì đầy
đủ những giới luật của tự viện. Sách này chỉ trích chủ trương của
những tông phái Phật giáo bắt nguồn từ thời đại Nại Lương cho rằng
cần phải tuân thủ nghiêm ngặt những giáo qui của Tiểu Thừa đối
với
những người xuất gia tu hành.
Những ý kiến trong sách nhận
được sự hoan nghênh từ những tông phái mới của thời đại Liêm Thương
(Kamakura) sau này, và nhiều nhà lãnh đạo tông giáo của thời đại đó
đã trích dẫn tác phẩm này trong các sách của họ để biện minh
cho
tình trạng tu hành của tăng sĩ vào thời mạt pháp. Vì vậy có thể
có đây là tác phẩm đã tạo ảnh hưởng quan trọng cho thái độ đối với
giới luật tu hành của Phật giáo Nhật Bổn về sau này.
139. Thập Thất Điều Hiến Pháp
Do Thái Tử Thánh Đức (Shotoku) soạn
Tạng Ngoại
Nhan đề của sách “Thập Thất Điều Hiến Pháp” (mười bảy điều khoản
hiến pháp) được ghi trong “Nhật Bổn Thư Kỷ” là “Hiến Pháp Thập
Thất
Điều.” Đây là cuốn sách luật xưa cũ nhất của Nhật Bổn.
Như nhan đề cho thấy, sách này
bao gồm 17 điều khoản, nhưng không giống các sách về luật pháp và
hiến pháp ngày nay, thật ra nó gồm những điều khuyên răn về chính trị
và đạo đức dành cho các quan lại và những người cầm đầu các gia
tộc nhiều quyền thế đương thời. Nội dung nhấn mạnh vào những vấn đề
như tôn kính uy quyền của thiên hoàng, và sự cai trị công minh; nhưng
toàn bộ tác phẩm bao hàm tinh thần Phật giáo, và cũng có những
đoạn nói tới đạo đức của Nho giáo.
Những câu như “Dĩ hòa vi quí”
và “Tôn kính Tam Bảo” trong điều khoản thứ nhất và thứ nhì đã
trở
thành nổi tiếng; trong khi câu “Sự quyết định về những vấn đề trọng
đại không thể cho một cá nhân đơn độc quyết đoán,” trong điều khoản 17
và cuối cùng, có thể coi như đi tiên phong đối với tư tưởng dân chủ
ngày nay.