Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 2: Luận Diễn Giảng

29 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8298)
Phần 2: Luận Diễn Giảng

NHẶT LÁ BỒ ĐỀ
HT Thích Thanh Từ

Tập 3

Phần 2 

Luận Diễn Giảng


1. Chỉ Một Chữ "Biết"

Có lẽ mỗi người chúng ta ai ai cũng không còn lạ gì khi nhắc đến chữ "Biết". Có thể nói chúng ta đã gặp nó hằng trăm ngàn lần trong cuộc sống hằng ngày. Nơi gia đình, trong sách vở, ở học đường, ngoài xã hội, giữa công việc làm, đâu đâu chúng ta cũng có gặp, đến nỗi mỗi khi nhắc đến tưởng chừng như chúng ta đang sống trong đó không cần suy nghĩ chút gì. Thế nhưng hỏi lại, có ai đã thật sự chạm đến chữ "Biết" này một lần nào chưa? Quả là chúng ta đang vẫy vùng trong đó như sóng đang vẫy vùng trong nước!

Này, chúng ta hãy nhìn một ngọn sóng đang vươn lên! Và chúng ta có cảm nhận được cái gì? Phải chăng chúng ta đang sống trong ngọn sóng ấy, từ nước mà vươn lên và vẫy vùng trong nước? Có bao giờ sóng tách rời khỏi nước, thế mà có bao giờ sóng tìm gặp nước? Lượn sau cứ tiếp đuổi lượn trước từ ngày này qua ngày khác mà không thể tìm đâu là chỗ gặp nhau. Cũng vậy, chúng ta có bao giờ chẳng cùng sống "đời sống bất sanh bất diệt", nhưng cứ mãi đeo đuổi theo những lượn sóng sanh diệt, cái Biết này tiếp đuổi cái Biết kia, thế nên chưa bao giờ chạm mắt một lần Biết! Có thể chúng ta cũng có Biết và Biết thật nhiều, cho đến trí óc chúng ta đầy nhóc không còn chỗ để chứa. Song xét kỹ lại, chúng ta có thật Biết gì đâu? Khi còn suy nghĩ này nọ tức còn nói: "Tôi Biết thế này, tôi Biết thế kia..." chợt khi chết giấc hoặc lúc ngủ mê thì hỏi có còn Biết chăng? Cái Biết đó đã đi về đâu? Hoặc lúc ta đang ngồi thiền tư tưởng tạm thời dừng lặng, khi ấy lấy gì để Biết?

Vì có suy nghĩ thì có tướng này tướng nọ mà Biết, không suy nghĩ thì có tướng gì? Do đó chúng ta tưởng chừng như không còn Biết nữa, có người ắt sẽ hoảng hốt: "Thế là tôi mất rồi!" Quả tang chúng ta đang trồi hụp trên những lượn sóng chập chùng mà quên mất: nước vẫn còn đây! Thật sự ai ai cũng đều đủ "Tánh Biết thường hằng" không bao giờ gián đoạn, cho đến con trùng con kiến cũng không tạm thiếu, mà nói có Biết hay không Biết là thuộc về đối tượng có hay không mà thôi. Có đối tượng thì tướng Biết hiện, không đối tượng thì tướng Biết ẩn mà chẳng phải không cái Biết. Do đó người tu thiền mới có thể thường tỉnh sáng. Nghĩa là khi có tưởng "Biết rõ" là có tưởng, khi không tưởng "Biết rõ" là không có tưởng, tưởng có thể có hay không mà "Tánh Biết" thì không hai. Nên nói: Thường hiện tiền.

Từ đó chúng ta mới thấy rõ lối tu một cách rất thiết thực: khi nhìn một cành mai chúng ta "Biết rõ" đang nhìn cành mai, nghe tiếng nhạc "Biết rõ" đang nghe tiếng nhạc, ăn cơm mặc áo "Biết rõ" đang ăn cơm mặc áo v.v... tức là luôn luôn tỉnh sáng rõ ràng trên "cái Biết", không để cho cảnh đối tượng làm mờ. Nhân đó khi công phu thuần thục thì bất cứ nơi nào cũng là chỗ chúng ta ngộ đạo cả. Như thế, Tổ Qui Sơn dựng phất tử, Tổ Ca Diếp gọi A Nan, đối với chúng ta chẳng còn che mắt bít tai được nữa! Chỉ một phen Biết, tức hằng ngày chúng ta đang sống.

Rõ là có gì lạ đâu, bởi chúng ta vẫn sống mà không chịu nhận, cứ chạy theo những lượn sóng chìm nổi lên xuống nên thấy có kia, có đây cách biệt. Do đó mà hết buông cái này, bắt cái nọ, nhọc nhằn lao khổ từ kiếp này qua kiếp khác, từ thân này qua thân khác, cho đến khi chán nãn trở về với đạo mà vẫn còn cái tập khí sanh diệt chưa quên: Bỏ vọng để về chơn, diệt phiền não để chứng Bồ đề, Niết bàn v.v... lấy vọng này để bỏ vọng kia, dấu vết vẫn còn nguyên!

Chúng ta hãy nghe Thầy Tri Viên hỏi Thiền Sư Duyên Quán:

-- Khi giặc nhà khó giữ thì thế nào?

Duyên Quán đáp:

-- Biết được chẳng phải oan gia.

Quả thật chúng ta lâu nay cứ tưởng có một cái gì riêng khác làm rối loạn tâm mình, cần phải đoạn trừ nên thường thắc mắc không yên. Chẳng ngờ chính mình tự gây rối loạn mà không hay. Ðất, nước, gió, lửa không thể gây rối; gan, ruột phèo, phổi không thể gây rối; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp không thể gây rối. Chính ngay chỗ cái thấy, nghe, hiểu, biết, bình thường khởi lên cái "niệm kia đây", tức thành rối loạn. Trái lại, cũng ngay cái thấy, nghe, hiểu, biết đó tỉnh sáng trở lại tức nguồn thanh tịnh vốn không việc khác. Nên nói: tức thấy, nghe, hiểu, biết mà lưu chuyển luân hồi, cũng tức thấy, nghe, hiểu, biết mà ngộ tri kiến Phật.

Thầy Tri Viên hỏi tiếp:

-- Sau khi biết được thì sao?

Duyên Quán đáp:

-- Biến đến nước vô sanh.

Ngay chỗ tỉnh sáng hãy khéo giữ gìn, lâu ngày vọng tưởng tự dừng lặng tức là an trụ vô sanh, có trừ có dẹp gì đâu? Tuy nhiên chúng ta sẽ lầm lẫn khi đạt đến vô sanh, là sống một thế giới cách biệt với thế giới sai biệt này, chính cái niệm đó sẽ khiến chúng ta chìm lịm trong chỗ lặng lẽ, lấp bít con đường trí tuệ viên thông. Ðó là điều mà các Thiền Sư thường quở trách!

Vậy nên Thầy Tri Viên hỏi tiếp:

-- Nước vô sanh đâu không phải chỗ y an thân lập mạng?

Duyên Quán bảo:

-- Nước chết không chứa được rồng.

Thầy Tri Viên hỏi:

-- Thế nào là nước sống chứa rồng?

Duyên Quán đáp:

-- Dậy mòi chẳng thành sóng.

Phải vươn lên trong cái sanh diệt mà vẫn tự tại, dạo khắp núi sông mà không đạp một tấc đất. Gọi là kẻ vào rừng không động lá, đi qua không để lại dấu vết, đó mới là chỗ cứu cánh chân thật. Nên cuối cùng Thầy Tri Viên hỏi:

-- Bổng khi đầm nghiêng núi đổ thì sao?

Duyên Quán đáp:

-- Chớ nói ướt góc ca sa của Lão Tăng.

Quả thật trong sanh diệt vẫn sống bất sanh bất diệt, ý nghĩa sanh diệt chẳng tương can, càng thêm tỏ!

Nhận được chỗ này, chúng ta mới thấy chỗ không bệnh của Ngài Ðộng Sơn. Khi sắp tịch, Sư có chút bệnh.

Một vị Tăng đến hỏi:

-- Hòa Thượng bệnh có thấy cái chẳng bệnh chăng?

Sư đáp:

-- Có.

Tăng hỏi:

-- Cái chẳng bệnh có thấy Hòa Thượng chăng?

Sư đáp:

-- Lão Tăng xem y có phần.

Tăng hỏi:

-- Chưa biết Hòa Thượng làm sao xem y?

Sư đáp:

-- Khi lão Tăng xem chẳng thấy có bệnh.

Chúng ta thấy "cái không bệnh" chăng?

Chỉ một cái "Biết" thôi! Nghĩa là khi bệnh "Biết rõ" từng trạng thái diễn tiến của bệnh không một chút lầm lẫn, tức "cái Biết" ấy chẳng đồng với bệnh. Trái lại, nếu cứ nghĩ: "Ta bệnh khổ!" tức tự mình đồng hóa với cái bệnh và mất đi "cái Biết thường hằng", đó là bị sanh tử chuyển! Vậy nên chúng ta phải nhận sâu chỗ này. Nếu không, tu hành khó tiến, lại dễ sanh nghi ngờ.

Ðây chúng ta hãy nghe kỹ lại một lần nữa. Tổ Lâm Tế nói:

-- Xác thân tứ đại của các ông không biết thuyết pháp, nghe pháp. Gan mật, dạ dày, ruột không biết thuyết pháp, nghe pháp. Hư không không biết thuyết pháp, nghe pháp. Là một cái "riêng sáng hiện bày rõ ràng" ở trước mắt ông, nó biết thuyết pháp, nghe pháp. Nếu thấy được như thế đã cùng Phật Tổ không khác, chỉ trong tất cả thời đừng cho gián đoạn, chạm mắt đều phải, chỉ vì tình sanh trí cách, tưởng dấy thể sai.

Như vậy ngay chỗ thấy, nghe, hiểu, biết hằng ngày chúng ta khéo nhận thức "đạo nhân hiện tiền" không chỗ nương! Không nương đất, nước, gió, lửa, không nương gan, mật, phèo, phổi..., không nương sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp... cho đến không nương mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý: tức chính ngay thấy nghe này... liền giải thoát. Ðó là chúng ta sống giữa thế gian mà siêu xuất khỏi thế gian. Chủ yếu là thường tỉnh đừng mê, thường nhớ chẳng quên, chớ để tình sanh mà trí phải cách, tưởng dấy lên thì thể thành sai biệt. Phải là trong tất cả thời đi, đứng, nằm, ngồi, công tác, nghỉ ngơi mỗi mỗi cử động đều "Biết" rõ ràng! Nếu có phút giây nào trống thiếu tức phút giây đó ta đang sống trong tăm tối. Cho dù là người tu thoại đầu mà thiếu sự tỉnh sáng này, cũng bị quở trách! Chẳng hạn khi tham không biết câu thoại đầu đang tham, hoặc tham một lúc thoại đầu chạy đi đâu không hay không biết; thế là có nghĩa tham chăng hay đã đi trong hang quỉ rồi? Chúng ta cần hiểu rõ, Thiền là đủ hai nghĩa "Tịch và Chiếu", do "tịch" mà niệm không khởi, do "chiếu" mà trí chẳng đoạn, niệm không khởi, trí chẳng đoạn đó mới là thường tỉnh sáng, một điểm cũng chẳng lầm. Dù có chỗ gọi "tịch chiếu đều quên" song vẫn không mất ý nghĩa tỉnh sáng. Mà đến đây "tịch chiếu không hai", chẳng còn dấu vết phân biệt đây tịch kia chiếu; đó gọi là "nhập diệu" vậy.

Cho nên có vị Tăng hỏi Thiền Sư Nam Nhạc Hoài Nhượng:

-- Như gương đúc thành tượng, sau khi tượng thành cái sáng đi về đâu?

Sư đáp:

-- Như Ðại Ðức tướng mạo lúc trẻ hiện giờ ở đâu?

Tuy tướng mạo lúc trẻ hiện giờ không thấy, nhưng đi đứng hiện tại có phải là ai khác đâu?

Tăng hỏi tiếp:

-- Tại sao khi thành tượng không chiếu soi?

Sư đáp:

-- Tuy không chiếu soi nhưng dấu y một điểm cũng chẳng được!

Nghĩa là chúng ta cứ nghĩ, khi vọng tưởng lặng hết rồi thì hiểu biết cũng không luôn, chứ có biết đâu, chính khi ấy toàn thể thành dụng không còn phân chia, nên bất cứ lúc nào hễ chạm đến liền Biết, động đến liền xoay, một hạt bụi cũng không lọt qua được: "Tuy không chiếu soi mà một điểm dối y cũng chẳng được". Tịch mà thường chiếu rõ ràng không còn tranh cãi! Chỗ này mà sai một chút thì cách xa bằng trời với đất, trí tuệ do đó khó thông.

Ðến đây chúng ta đã hiểu tầm quan trọng của sự tỉnh sáng trong nhà Thiền. Chư Tổ thường nói: "Các ông nếu tạm rời việc này trong khoảng khắc tức cùng kẻ chết không khác". Song sự tỉnh sáng này đâu ai có thể truyền cho, cũng không ngòi bút nào ghi chép được. Do vậy nếu chúng ta chạy đến các Ngài hỏi tìm ắt thất vọng mang về hai tiếng "không biết". Có lúc từ bi hơn, các Ngài liền bảo: "Tha ông ba gậy!". Nếu miễn cưỡng hỏi tiếp tất bị vung gậy vào người! Phải chăng các Ngài muốn nói, chúng ta đang sống trong ấy mà lại đi tìm? Ăn cháo xong chưa? Rửa bát đi! "Chẳng rời hiện tại thường lặng lẽ, còn tìm tức biết anh chưa thấy!". Chính nó đây rồi! Khi ăn chúng ta cùng ăn, khi ngủ chúng ta cùng ngủ, khi dạo chơi chúng ta cùng dạo chơi v.v... hằng ngày vẫn theo sát chúng ta không một phút giây tạm rời. Tự mình đang sống mà lại đến người tìm, trách gì không khỏi nếm gậy từ bi! Sao không nhanh nhẹn chuyển một đường gươm "không biết" thành "tự biết", tức thì đầu gậy ở trong tay ta, mặc tình tung hoành.

Như câu chuyện Thiền Sư Linh Mặc, khi đến yết kiến Hòa Thượng Thạch Ðầu, Sư tự hứa nếu một câu khế hợp thì ở, chẳng hợp liền đi. Nhưng khi thưa hỏi vẫn không khế hợp. Sư bèn ra đi.

Thạch Ðầu theo sau đến cửa ngoài, liền gọi:

-- Xà Lê!

Sư xoay đầu lại.

Thạch Ðầu bảo:

-- Từ sanh đến tử chỉ là cái ấy! Xoay đầu chuyển não làm gì?

Sư nhân câu nói này liền đại ngộ, dừng lại đây hai năm.

Như vậy trước khi xoay đầu với sau khi xoay đầu cách nhau bao xa? Nên nói: Chỉ một đường gươm thì "không biết" thành "tự biết"! Xưa nay vốn tự đầy đủ, chẳng phải miệng người truyền. Ðó là ý nghĩa tự tỉnh sáng, căn bản của người tu Thiền.

Giờ đây chúng ta có thể sáng tỏ chữ "Biết" ban đầu rồi chứ gì? "Biết" ở đây là sự tỉnh sáng thường xuyên, đừng hiểu lầm "Biết" là những đường nét in đậm trong đầu óc, đó là chúng ta tự chôn vùi trí tuệ. Chúng ta sống với chữ "Biết", là chúng ta hằng sống trong sự tỉnh sáng. Một niệm khởi lên liền Biết, là khởi trong sự tỉnh sáng! Cũng vậy một đóa hoa anh đào nở, nở trong sự tỉnh sáng, một tiếng chim sơn ca hót trên đầu cành, hót trong tỉnh sáng. Cho đến làm công việc gì cũng làm trong sự tỉnh sáng! Ðó là chúng ta đã sống với Thiền!

Chỉ ngay một niệm liền trở về,
Cũng hơn mười năm vùi trong sách!

Chúng ta còn chạy đi đâu để học Thiền? Ai có thể truyền cho chúng ta sự tỉnh sáng này? Ai có thể cướp mất chúng ta sự tỉnh sáng này? Vậy cớ gì chúng ta lại nghi ngờ? Nếu chúng ta sống trọn vẹn trong sự tỉnh sáng này thì hỏi trên thế gian còn có gì chẳng sáng? Kinh nói: "Nào cây, nào chim... cũng đều niệm Phật niệm pháp", chạm mắt đều Bồ đề, trên đầu trăm cỏ ý Tổ Sư; đâu còn lạ gì "mười phương hư không thảy đều tiêu mất?". Nghĩa là trước mắt, chúng ta không một điểm trống vắng, không một hạt bụi che, dù có cảnh đối trước vẫn như không. Tức là thấy biết tự tại!

Tóm lại "Biết" tức "tỉnh". Chỗ này không thể lấy nghĩa thế gian mà có thể luận đến được. Thể nó vượt ngoài có không, tuy vẫn hiện hữu giữa thế gian mà không bị thế gian ô nhiễm. Về nghĩa sâu kín của nó thì mắt Phật nhìn cũng khó thấy. Về nghĩa tự tại của nó thì trời không thể che, đất không thể chở, hư không không thể bao. Về nghĩa sáng của nó thì mặt trời mặt trăng sánh chẳng kịp. Vậy ai đã từng chạm mắt một lần "Biết"? Sanh tử nào có ngại?

2. Phật Thành Ðạo

Nhân ngày Lễ Phật Thành Ðạo, tôi nhắc lại vài vị Thiền Sư qua câu chuyện Phật thành đạo, để cho quí vị thấy và hiểu sâu hơn về ý nghĩa thành đạo.

Ðời nhà Tống vua Hiếu Tông đến hỏi Thiền Sư Phật Chiếu nhân ngày thành đạo. Ông hỏi rằng:

-- Nói Phật thành đạo là thành cái gì?

Thiền Sư đáp:

-- Dám bảo bệ hạ đã quên.

Ông vua liền gật đầu. Quí vị thấy Thiền Sư này trả lời hay chưa? Tại sao hỏi: "Thành đạo là thành cái gì?", thì ông trả lời rằng: "Dám bảo bệ hạ đã quên?"

Giờ đây tôi hỏi quí vị quên là quên cái gì? Ðã quên là đã quên cái gì? Chắc rằng quí vị sẽ tưởng chừng quên cái đêm mùng 8 tháng chạp trong sử còn ghi: Từ canh một đến canh hai Phật chứng được Thiên nhãn minh, tới canh ba chứng Túc mạng minh, qua canh năm chứng Lậu tận minh, rồi sau đó đầy đủ Lục thông, Tứ vô sở úy, Thập bát bất cộng pháp v.v... có phải quên cái đó chăng? Chắc rằng không phải! Như vậy thì quên cái gì? Ở đây tôi dẫn cái chỗ quên cho quí vị thấy: Trong kinh Pháp Hoa quí vị còn nhớ phẩm "Cùng Tử" chăng? Khi chàng cùng tử đi lang thang mỏi mệt trở về tìm cha, đến lúc tìm tới nhà ông Trưởng giả rồi mà ông làm sao? Tới thấy cha mình mà không nhớ, còn người cha nhớ biết con mình muốn bắt giữ ông lại thì ông hoảng hốt chạy trốn. Như vậy ông quên mình là con ông Trưởng giả, cho nên phải chạy lang thang đi ăn mày. Khi về nếu ông tới gặp cha liền nhớ, thì sao? Ngay đó liền hết cái đời ăn mày. Ðó là một cái chỗ quên.

Cái quên thứ hai nữa là chàng say rượu được bạn tặng cho hòn ngọc quí cột trong chéo áo, bởi say rượu nên tỉnh dậy rồi quên (quên mình có hòn ngọc quí) cho nên vẫn đi lang thang ăn mày. Ðợi tới khi người bạn gặp lại mới trách: "Tại sao cái anh này trước kia mình đã cho hòn ngọc quí mà bây giờ vẫn còn ăn mày?". Người bạn liền kêu lại chỉ: "Hòn ngọc quí ngày xưa tôi cho anh còn cột trong chéo áo kia, tại sao anh quên đi lại đi ăn mày lang thang?". Tức thời anh chàng kia liền nhớ lại mình có hòn ngọc quí. Như vậy là hai cái quên, hai cái quên đó là quên cái gì? Quên mình là con ông Trưởng giả, quên mình có hòn ngọc quí cột sẵn trong chéo áo, phải không? Và chàng cùng tử sau khi được ông Trưởng giả nhận là con, chừng đó chàng sẽ có nào là kho tàng của báu, nào là vườn ruộng, xe cộ, tôi tớ... vậy những cái kho tàng, của báu, vườn ruộng, xe cộ, tôi tớ đó là cái phụ ở sau, sau cái nhớ, không phải là chánh phải không? Thế mà mình bây giờ còn nhớ cái đó là cái chánh thôi.

Kế đó nữa, như chàng say sau khi đã nhớ mình có hòn ngọc, rồi đem hòn ngọc ra bán, chừng đó mới sắm được nhà, mới có xe cộ, tôi tớ.v.v... thì những việc đó cũng là cái sau, mà cái chủ yếu là "cái quên" đó, nếu trực nhớ lại thì đầy đủ. Như vậy quí vị thấy Phật thành đạo là thành cái gì? Là thành "cái bệ hạ đã quên" phải không? Quí vị thấy có thấm thía hay chưa? Câu nói mới nghe qua hết sứcđơn giản, hình như là vô lý nữa, mà khi suy nghĩ rồi mới thấy thực là chỉ cho chúng ta tận nguồn gốc cái chỗ thành đạo của đức Phật. Ðó là về phần kinh.

Ðến phần Thiền, tôi sẽ dẫn thêm các vị tôn túc sau này cũng nói cái chỗ đã quên cho mình biết và chỉ cho mình thấy, để xem quí vị có thấy biết được hay không? Ðầu tiên là kể chuyện Ngài Phó Ðại Sĩ có làm một bài tụng, nguyên văn chữ Hán:

Dạ dạ bảo Phật miên
Triêu triêu hoàn cộng khởi
Khởi tọa trấn tương tùy
Ngữ mặc đồng sở chỉ
Tiêm hào bất tương ly
Như thân ảnh tương tợ
Dục thức Phật khứ xứ
Chỉ giá ngữ thinh thị.

Tạm dịch:

Ðêm đêm ôm Phật ngủ
Ngày ngày cùng Phật dậy
Ngồi đứng hằng theo nhau
Nói nín cùng chung
Mảy may chẳng tạm rời
Như hình cùng với bóng
Muốn biết nơi Phật đi,
Chỉ chỗ nói năng ấy!

Quí vị thấy chỗ chỉ chưa? Ðêm nào cũng ôm Phật ngủ, ngày nào cũng cùng Phật dậy, mình với Phật thân thiết như thế, mà sao lại quên? Bởi quên cho nên mình cô phụ Phật. Ở đây Ngài muốn chỉ cho mình thấy Phật thì chỉ chỗ nào? "Muốn biết nơi Phật đi, chỉ chỗ nói năng ấy", chỉ ngay cái chỗ nói năng đó là cái chỗ Phật đi. Ðó là một vị tôn túc.

Kế đó, cũng một vị Thiền Sư, tức Ngài Huệ Hải đến Mã Tổ, Mả Tổ hỏi: "Ngươi đến đây cầu việc gì?". Ngài trả lời: "Con đến đây cầu hỏi Phật pháp (hay là cầu học Phật pháp)". Mã Tổ nói: "Kho báu nhà mình không đoái hoài, đến đây cầu cái gì?". Huệ Hải liền hỏi lại: "Cái gì là kho báu của Huệ Hải?". Mã Tổ nói: "Cái ông hỏi ta đó!". Ai có thể thấy? Vậy mà Sư nhận được kho báu về nhà tự tại! Quí vị mới thấy, hai vị đó chỉ, người thì chỉ: "Muốn biết nơi Phật đi, chỉ chỗ nói năng ấy"; người nói: Muốn biết kho báu nhà mình, "cái ngươi hỏi ta đó!". Qua hai chỗ chỉ đó quí vị dễ thấy hay không?

Giờ tôi bình hai cái chỗ chỉ đó cho quí vị nghe. Như có hai cha con, người cha khoảng ba, bốn mươi tuổi, còn đứa con bảy, tám tuổi; hai cha con dẫn đi đường chơi, có gió thổi mạnh, người cha nói: "Có gió thổi mạnh", đứa con hỏi: "Gió ở chỗ nào ba?", người cha bảo: "Chỗ lá cây rung động đó!". Chỉ như vậy trúng chưa? Chỉ chỗ lá cây rung động là chỗ gió? Nếu chỉ như vậy đứa con nó sẽ nghĩ rằng: "Chỗ lá cây rung động đó là gió, và gió chỉ hạn cuộc ở chỗ lá cây rung động thôi". Nghĩ như vậy đã đúng chưa? Mà phải hiểu sao? Lá cây rung động là chỉ một phần nhỏ của gió, nguyên gió nó tràn đầy bàng bạc chẳng qua vì gặp lá cây thành lá cây phải rung động. Tuy nhiên lá cây rung động chính từ gió mới có chứ không phải không ngơ, như nếu cho gió chỉ ở trong phần lá cây rung động thì chưa trúng, phải không? Và nếu cho lá cây rung độngthể tướng của gió thì lại càng không trúng nữa. Bởi thể tướng của gió nó không phải chỉ là cái lay động của lá cây, mà nó còn trùm khắp. Như vậy, chúng ta mới thấy hai vị tôn túc chỉ chỗ kho báu và chỗ Phật đi đó, chẳng khác nào người cha chỉ cái chỗ gió làm động, phải vậy không? Hiểu như thế quí vị mới khỏi lầm! Ðó là tôi nói cho quí vị thấy chủ yếu của chỗ chỉ: "Nơi Phật đi" hay là "Kho báu nhà mình". Ở đây hai Ngài đều chỉ ngay cái chỗ nói năng, thưa hỏi, nhưng chỉ như vậy chẳng qua là chỉ lá cây rung mà nói đó là gió, chớ không phải chỉ toàn thể của gió.

3. Ý Nghĩa Tối Thượng

Những ai đã đọc quyển "Góp nhặt Cát Ðá" đến câu chuyện Giáo Lý Tối Thượng chắc không khỏi có điều thắc mắc? Vì sao? Câu chuyện như vầy:

Có anh mù, một hôm đến thăm người bạn, vì mãi mê chuyện trò đến trời tối không hay. Khi ra về, người bạn mới đốt một cây đèn lồng trao cho anh, anh khoát tay nói: "Với tôi thì ngày cũng như đêm có cần gì đến thứ này". Người bạn giải thích: "Tuy nhiên với anh thì được, song đối với người sẽ nhờ có cây đèn này mà thấy và tránh anh!". Anh nghe nói có lý liền cầm lấy cây đèn và chào ra về. Nhưng anh đi được một quảng, chợt có người bất ngờ đâm sầm vào anh. Anh quát: "Ai vậy? Chẳng thấy tôi cầm cây đèn đây sao?". Người kia đáp: "Thưa bạn, đèn của bạn đã tắt từ lâu rồi!".

Ðọc qua câu chuyện tựa đề là Giáo Lý Tối Thượng, song chúng ta có thấy chỗ nào là Giáo Lý Tối Thượng? Thật là khó hiểu! Phải chăng với một kẻ mù thì dù có được ân cần trao cho cây đèn cầm trong tay nhưng vẫn không tự cứu mình thoát khỏi tai nạn. Trái lại, chính mình phải tự sáng mắt, khi đó cây đèn mới có hiệu quả?

Cũng vậy, muốn thoát khỏi sanh tử luân hồi, ngoài chúng ta ra, ai có thể thay thế cho mình làm việc đó? Dù chúng ta có được trao cho một pháp môn cao siêu mầu nhiệm, mà chính mình không thể tự sáng, thì pháp đó cũng chỉ là món ăn tạm thời vậy thôi, đôi khi còn có hại nữa là khác. Nên nói: Ðề hồ biến thành độc dược! Bởi thế chư Phật dù có trải qua nhiều kiếp mỏi miệng, tràn môi, song chúng ta giờ đây cũng vẫn lặn hụp không biết ngày cùng. Vì Phật, Tổ dù có thương xót chúng ta bao nhiêu, chỉ là trợ duyên chúng ta trên một ý nghĩa tạm thời. Nếu chúng ta không chịu tự mình mở mắt ra, lại cứ bám vào những lời Phật, Tổ, lấy cái hiểu của người làm cái hiểu của mình, thì có khi nào được giải thoát? Chúng ta còn nhớ câu chuyện Ngài Hương Nghiêm Trí Nhàn chăng? Sư ở nơi Tổ Bá Trượng được nổi tiếng là hỏi một đáp mười, thế nhưng sau khi Tổ Bá Trượng qui tịch, Sư đến Qui Sơn bị một câu hỏi đành câm miệng. Qui Sơn bảo:

-- Nghe nói ông ở chỗ tiên sư Bá Trượng hỏi một đáp mười. Vậy giờ đây hãy nói một câu xem: "Thế nào là một câu trước khi cha mẹ chưa sanh?".

Sư bị một câu này mờ mịt không đáp được, trở về liêu, Sư soạn hết sách vở đã học qua, tìm một câu đáp trọn không thể có. Sư than: "Bánh vẽ chẳng no bụng đói". Ðến cầu Qui Sơn nói phá. Qui Sơn bảo:

-- Nếu ta nói cho ngươi về sao ngươi sẽ chửi ta, ta nói là việc của ta, đâu can hệ gì đến ngươi?

Rõ ràng từ ngoài mà được chẳng phải chân thật của báu, nơi người mà hiểu đâu dính dáng đến việc bổn phận? Sư bèn đem những sách vở đốt hết, từ giả ra đi.

Một hôm, ở chỗ Nam Dương, nhân cuốc cỏ trên núi, lượm hòn gạch ném trúng cây tre vang tiếng. Sư chợt tỉnh ngộ phá lên cười. Sư trở về tắm gội, thắp hương hướng Qui Sơn đảnh lễ, ca tụng rằng: "Hòa Thượng từ bi ơn như cha mẹ, khi trước nếu vì con nói rồi thì làm gì có ngày nay". Ðó là phải tự mình sáng lên mới có thể nếm mùi pháp vị. Thế nên Nham Ðầu ở Ngao Sơn đâu chẳng bảo Tuyết Phong rằng: "Từ cửa vào chẳng phải của báu trong nhà... muốn xiển dương đại giáo mỗi mỗi phải từ nơi hông ngực mình lưu xuất, sau này cùng ta che trời che đất đi". Nghĩa là nếu của báu trong nhà ắt tự mình lấy ra dùng đâu thể một bề đến nơi người mà nhận đem về gìn giữ sao khỏi có lúc phải trả lại, chung cuộc vẫn tay không.

Từ đó chúng ta mới thấy ý nghĩa thâm sâu trong kinh Pháp Hoa, phẩm Tùng Ðịa Dũng Xuất. Khi ấy các Ðại Bồ Tát từ tha phương đến trước Phật Thích Ca thưa thỉnh, nếu Phật hứa cho, các vị sẽ ở cõi Ta Bà này sau khi Phật diệt độ, hộ trì kinh Pháp Hoa. Phật không chấp nhận, bảo rằng: "Thôi đi, chẳng cần các ông hộ trì kinh này. Vì sao? Vì ở cõi Ta Bà đây có các vị Ðại Bồ Tát số đông đến sáu muôn sông Hằng, mỗi vị có sáu muôn hằng sa quyến thuộc, các vị đó có thể hộ trì kinh này". Khi Phật nói ra lời đó, cõi Ta BàTam Thiên Ðại Thiên các cõi nước đất đều rung nứt. Trong đó có vô số vị Ðại Bồ Tát từ dưới lòng đất vọt lên! Mới nghe qua chúng ta thấy đức Phật có vẻ địa phương quá phải không? Tuy nhiên nhận sâu vào, mới thấy ý nghĩa cao thâm. Bởi kinh Pháp Hoatượng trưng cho "Tri kiến Phật" tức tánh giác nơi mỗi người. Muốn bảo vệ tánh giác đó, nếu không phải tự mình giữ lấy, lại bảo người giữ gìn, làm sao có thể bảo đảm lâu dài? Thế nên Phật không chấp nhận Bồ Tát tha phương hộ trì kinh Pháp Hoa.

Ðến đây chúng ta mới hiểu vì sao trong nhà Thiền thường chia hai loại trí: Trí hữu sưTrí vô sư. Trí hữu sư là trí từ nơi học hỏi mà được. Nó có giá trị tạm thời không phải cứu cánh miên viễn. Chính Trí vô sư là cái tự mỗi người phát minh ra, chẳng từ nơi miệng người truyền, cũng không do ai đem lại, đó là "chân trí tối thượng". Người nhận ra được trí này là đã đi đến ngã rẻ của con đường giác ngộ, từ nay không còn trở lại sanh mê, nguồn giải thoát là đây.

Nói trắng ra, chủ yếu Thiền Tông vốn chỉ thẳng cho người nhận ra cái trí vô sư này chớ không có gì khác. Bởi thế những tiếng hét chát tai, những cái đánh trời giáng cốt đập thẳng vào chúng ta để sống dậy "vô sư trí hiện tiền!". Người mà đạt đến đây mới có thể mở miệng nói: "Từ nay không còn bị đầu lưỡi các Hòa Thượng trong thiên hạ lừa!". Ðó là sống vững mạnh trong ánh sáng của chính mình.

Chúng ta đâu chẳng nghe Ngài Nam Viện Huệ Ngung hỏi Phong Huyệt: "Phương Nam một gậy thương lượng thế nào?". Phong Huyệt đáp: "Thương lượng rất kỳ đặc". Lại hỏi: "Hòa Thượng ở đây một gậy thương lượng thế nào?". Nam Viện cầm gậy lên bảo: "Dưới gậy vô sanh nhẫn, gặp cơ chẳng thấy thầy". Ngay câu nói này Sư triệt ngộ. Tức là ngay một gậy liền quên chủ khách đối đãi, tự mình sống dậy không chỗ nương, từ đó mới có thể đảm đang việc lớn! Một hôm Nam Viện lại hỏi: "Ngươi nghe Lâm Tế khi sắp tịch nói chăng?". Sư thưa: "Nghe". Nam Viện bảo: "Lâm Tế nói: Ai biết chánh pháp nhãn tạng của ta đến bên con lừa mù diệt. Lại Ngài lúc bình sanh như con sư tử thấy người liền giết, đến khi sắp tịch tại sao lại bó gối, xuôi đuôi như vậy?". Sư thưa: "Mật phó sắp tịch, toàn chủ mất mật". Nam Viện lại hỏi: "Tại sao Tam Thánh Huệ Nhiên cũng không nói?". Sư thưa: "Con thật đã gần gũi nhận lãnh vào thất, chẳng đồng với người đi ngoài cửa". Nam Viện gật đầu. Chúng ta có hiểu chăng, Ngài Phong Huyệt muốn nói gì? Chỗ này phải là kẻ ở trong nhà mới tự cảm thông lấy, không phải người tà tâm có thể nhìn trộm. Do đó Phong Huyệt nói: "Con thật đã gần gũi nhận lãnh vào thất, chẳng đồng với người đi ngoài cửa". Nam Viện muốn gạn lại chỗ thấy của Phong Huyệt, qua câu nói này đã xác chứng Sư đang sống trong ấy không còn nghi. Ðó là chỗ Nam Viện gật đầu!

Rõ được chỗ này, chúng ta mới có thể sống dậy giữa những tiếng hét, tiếng cười, vùng lên dưới những nhát búa, đường gậy! Ta đã có lối đi! Thiền Sư Ỷ Ngộ ở Pháp Xương đâu chẳng nói: "Ở thành Tỳ Da im lặng, phỏng theo tông thừa; Thứu Lãnh giơ cành hoa trở thành thuốc độc; chín năm xây mặt vào vách, làm ngu độn tông tổ tiên; nửa đêm truyền y, là gạt kẻ hậu học; Mã Tổ tức tâm tức Phật, in tuồng ôm gốc cây đợi thỏ; Bàn Sơn phi tâm phi Phật, có thể gọi là hòa bùn hợp nước. Những tri kiến như thế là bại hoại Tổ phong, diệt dòng họ Thích..." Vì sao? Ở thành Tỳ Da im lặng tức Ngài Duy Ma Cật im lặng, Bồ Tát Văn Thù tán thán: chúng ta phải thấy thấu trong chỗ im lặng, chớ dừng nơi đây. Thứu Lãnh giơ cành hoa là trong hội Linh Sơn Thế Tôn giơ cành hoa sen, Ngài Sa Diếp mĩm cười: nên khéo thấy ý kia, chớ ở trên cành hoa mà làm chỗ hiểu. Chín năm xoay mặt vào vách là Tổ Ðạt Ma chín năm ngồi yên nơi động Thiếu Thất: chỉ vì cơ duyên chưa đến, nếu cứ bắt chước như thế, làm sao có thể tự sáng? Nửa đêm truyền yNgũ Tổ trong thất truyền y bát cho Lục Tổ: một hoàn cảnh tạm thời, chớ việc này ai ai cũng đều đủ có gì giấu giếm? Mã Tổ tức tâm tức Phật là: tạm dùng qua cơn loạn. Bàn Sơn phi tâm phi Phật: đâu thể riêng có? Ðó là Ngài thổi vào chúng ta một luồng sinh khí, mở ra một con đường sống, chẳng cho đạp dấu chân người mà ôm giữ cái tri kiến đã chết. Chẳng thế là chúng ta tự đóng khung mình trong cái khuôn thước cũ và không thấy được Phật, Tổ sống. Hoàng Long Thiền Sư cũng từng bảo người: "Ðã ra khỏi cửa thì lay tay đi thẳng, chẳng cần biết có người gát cửa". Nếu còn do dự là lỗ mũi mình ở trong tay người!

Như vậy, đến đây chúng ta đã hiểu thế nào là Ý Nghĩa Tối Thượng rồi chứ gì? Tức là chỉ thẳng mỗi người chúng ta tự tỉnh sáng lên, mở mắt ra mà nhìn những lẽ thật xưa nay. Chính tâm tỉnh sáng đó là nguồn giải thoát trên hết, ngoài ra không ai có thể giải thoát thay cho chính mình. Nếu chúng ta đầy đủ cái nhân này là chúng ta đầy đủ cái nhân thành Phật không còn nghi ngờ.

Ðể kết luận về Ý Nghĩa Tối Thượng, chúng ta hãy nghe câu chuyện Ngài Ðức Sơn ở Long Ðàm. Một đêm Sư đứng hầu, Sùng Tín bảo: "Ðêm khuya sao chẳng xuống?". Sư kính chào bước ra, lại trở vào thưa: "Bên ngoài tối đen". Sùng Tín thắp cây đèn cầy đưa Sư, Sư toan tiếp lấy, Sùng Tín liền thổi tắt. Ngay đó Sư đại ngộ! Tại sao đã đốt đèn đưa cho người, người vừa tiếp lấy liền thổi tắt? Vậy tiếp lấy là tiếp lấy cái gì? Ðây chúng ta nghe lại câu chuyện Ngũ Tổ Hoàng Mai đưa Lục Tổ qua sông. Khi ấy Lục Tổ giành lấy tay chèo, thưa: "Lúc còn mê thì nhờ thầy độ, giờ đây con phải tự độ". Qua câu nói này chúng ta đã nhận ra chỗ thổi đèn đưa cho Ðức Sơn là: "Khi mê nhờ thầy độ". Ðức Sơn vừa tiếp lấy, Sùng Tín liền thổi tắt là: "Giờ đây con phải tự độ". Ngay đó tự nắm lấy tay chèo! Nếu sáng được chỗ này liền rõ ý kia. Ba đời chư Phật, lịch đại Tổ Sư đâu chẳng chỉ dạy chúng ta khéo nhận ragiữ gìn một việc này? Ðược vậy chúng ta mới tự cứu mình và Phật, Tổ cũng không uổng công!

Tóm lại chánh pháp Như Lai dù cao siêu đến đâu nhưng nếu chúng ta không chịu tỉnh giác thực hành ắt cũng khó thấy giá trị hữu ích. Trái lại, phải tự mình sống dậy trong chánh pháp, đó là cửa diệu đưa mình ra khỏi khổ đau. Chính khi ấy chúng ta mới hiểu, thế nào là "Ý Nghĩa Tối Thượng".

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14764)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11828)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12760)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10343)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12068)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15296)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11080)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10538)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12475)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16428)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14312)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11789)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14806)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12031)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16857)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11588)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12736)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11344)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12059)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52126)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15469)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13967)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11442)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13183)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12787)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13222)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17910)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12454)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12656)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54210)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14425)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9933)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13825)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 57971)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14502)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20143)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13791)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15402)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17494)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13314)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11934)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13489)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14669)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12493)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12157)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12065)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13290)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12541)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13659)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13322)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25601)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12179)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14559)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11862)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42074)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28340)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38806)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14723)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12699)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16239)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant