Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

2. Cúng Chư Thiên

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 32746)
2. Cúng Chư Thiên

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển hai
Báo ân

1. Chương hai: Báo Ân
1.2 Cúng Chư Thiên

Phàm pháp cúng chư Thiên, dự định ngày. Thầy Tri Khách lo chuẩn bị trần thiết pháp đàn, nhờ hương đăng quét dọn sạch sẽ và trang hoàng tràng phan, cờ phướn, lọng… cho thật trang nghiêm đầy đủ. Giữa chánh điện thiết trí tòa cao tôn trí Tam Bảo, kế đó hai bên đặt bàn hương án, trên bàn sắp đồ cúng, hiến cúng đèn quang minh theo hầu chư thiên; và các vị thần linh 3 cõi gồm 46 bài vị trên bàn cũng bày hương hoa, trà quả, đèn đuốc v.v.. Kế ở dưới bậc thấp hơn đặt bài vị thiên tiên sắp đồ cúng giống nhau. Như cúng cơm rau, mì, thức ăn…đều phải đầy đặn đúng pháp; ắt không nên dùng sanh vật, không thể đồ ăn nguội nhạt, ngược lại rước lấy lỗi thiếu cung kính. Sắm sửa các thứ sẵn trước một ngày. Trước giờ đi ngủ, vị Tri Khách gióng 3 hồi trống để thông báo giữa chúng buổi lễ sáng hôm sau, và cắt đặt, đề cử các phần vụ xong xuôi, đại chúng chỉ tịnh.

Sáng sớm thức dậy, thúc hiệu lệnh, chư tăng vân tập chánh điện. Đảnh lễ Tam Bảo, khai chung bảng, niệm hương, cử tán… (như nghi trên, chỉ thêm phần tán cuối):

Trên cao thần hộ pháp soi sáng,

Trời, trăng, sao tỏ rạng nhân gian,

Giữ đất nước an khang,

Lòng, thành dâng hiến cúng,

Phước thọ vững bình an.

Nam Mô Đăng Vân Lộ Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)

(Nghi lược bớt, tham khảo thêm cuốn Thiền Môn Nhựt Tụng). Chỉ 49 tôn hiệu Phật phải viết như dưới đây: 

Pháp đàn thiết lập đàn tràng:

Chính giữa: trung thiên giáo chủ: Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Đông Phương A Súc Phật, Nam Phương Bảo Tướng Phật, Tây Phương Vô Lượng Thọ Phật, Bắc Phương Vi Diệu Thanh Phật, Bảo Hoa Công Đức Hải, Lưu Ly Kim Sơn

Chư Phật quá khứ: Chiếu Minh Bảo Thắng Phật, Vô Cấu Xí Bảo Quang Minh Vương Tướng Phật, Kim Diệm Quang Minh Phật, Kim Bách Quang Minh Chiếu Tàng Phật, Kim Sơn Bảo Cái Phật, Kim Hoa Diệm Quang Tướng Phật, Đại Cự Bảo Tướng Phật (14 vị Phật viết chung 1 tấm).

Đàn nội ở trên bên trong treo phía trái:

Nam Mô Kim Quang Minh hải vi diệu pháp cự tối Thắng Kinh Vương.

Ở trên bên phải:

Nam Mô Quang Minh hội thượng chư đại Bồ Tát, Tín Tướng Bồ Tát, Kim Quang Minh Bồ Tát, Kim Tạng Bồ Tát, Thường Bi Bồ Tát, Pháp Thượng Bồ Tát… (6 vị Bồ Tát này viết chung 1 tấm). Ta Bà giáo chủ hiệu lịnh độc tôn Đại Phạm Thiên Vương và các quyến thuộc vị ấy. (Để bên trái ở dưới vị thứ nhất)

Bên trái vị thứ 1: Địa cư thế chủ Đao Lợi Trung Vương - Đế Thích tôn thiên.

Bên trái vị thứ 2: Đông Phương hộ thế càng đạt Bà Chủ - Trì Quốc Thiên Vương.

Bên trái vị thứ 3: Nam Phương hộ thế: Cưu Bàn Trà Chủ tăng trưởng Thiên Vương.

Bên trái vị thứ 4: Tây Phương hộ thế: Đại Long Vương Vương - Quảng Mục Thiên Vương.

Bên trái vị thứ 5: Bắc Phương hộ thế - Đại Dược Xoa Chủ: Đa Văn Thiên Vương.

Bên trái vị thứ 6: Thân phục oán ma thệ vị lực sĩKim Cang Mật Tích Tôn Thiên

Bên trái vị thứ 7: Đặc tôn chi chủ cư sắc đảnh thiên – Ma Hê Thủ La tôn thiên.

Bên trái vị thứ 8: Nhị thập bát bộ thống lãnh quỉ thần tán chỉ đại tướng tôn thiên.

Bên trái vị thứ 9: Năng dữ tổng trì đại trí huệ tụ - Đại Biện Tài tôn thiên.

Bên trái vị thứ 10: Tùy kỳ sở cầu linh đắc thành tựu - Đại Công Đức tôn thiên.

Vị 11 bên trái: Ân ưu tứ bộ ngoại hộ tam châu – Vi Đà Thiên Tướng tôn thiên.

Vị 12 bên trái: Tăng trưởng xuất sanh, chứng minh công đứcKiên Lao Địa Thần tôn thiên.

Vị 13 bên trái: Giác trường thùy ấm nhân quả: Hổ Nghiêm Bồ Đề Thọ Thần tôn thiên.

Vị 14 bên trái: Sanh chư quỉ vương bảo hộ nam nữ - quỉ tử mẫu thần tôn thiên.

Vị 15 bên trái: Hành nhựt nguyệt tiền, cứu binh phạt nạn – Ma Lợi Phộc tôn thiên.

Vị 16 bên trái: Bách minh lợi sanh thiên quang phá ám - nhựt cung Thái Dương tôn thiên.

Vị 17 bên trái: Tinh chư tú vương thanh lương chiếu dạ nguyệt cung Thái Âm tôn thiên.

Vị 18 bên trái: Bí tạng pháp bảo chủ chấp quần long – Ta Kiệt La Vương tôn thiên.

Vị 19 bên trái: Chưởng u minh quyền, vi địa ngục chủ - Diệm Ma La tôn thiên.

Vị 20 bên trái: Ngũ nhạc cư đông Thái sơn phủ quận – Thiên Tề Nhân Nguyên tôn thần.

Vị 21 bên trái: Thiết Vi lưỡng sơn thập bát ngục chủ - thập điện minh vương tôn thần.

Vị 22 bên trái: Không thần, địa thần, trú thần, dạ thần; nhứt thiết hộ thân chư thần đẳng chúng.

Vị 23 bên trái: Vô sắc tứ không, phi phi tưởng xứ, vô sở hữu xứ, thức xứ, không xứ chư đại thiên vương.

Bên phải vị thứ 1: Sắc giới tứ thiền, Ngũ Na Hàm Thiên, Sắc cứu cánh, Thiện Hiện, Thiện Kiến, Vô Nhiệt, Vô Phiền chư đại thiên vương.

Bên phải vị thứ 2: Sắc giới tứ thiền, ngoại đạo sở cư – vô tưởng thiên vương.

Bên phải vị thứ 3: Sắc giới tứ thiềnphàm phu vị - Quảng Quả, Phước Sanh, Vô Văn Thiên thượng, chư đại thiên vương.

Bên phải vị thứ 4: Sắc giới tam thiền: Biến Tịnh, Vô Lượng Tịnh, Thiểu Tịnh chư đại thiên vương.

Bên phải vị thứ 5: Sắc giới nhị thiền: Quang Âm, Vô Lượng Quang, Thiểu Quang, chư đại thiên vương.

Bên phải vị thứ 6: Sắc giới sơ thiền thiên vương Đại Phạm thứ cập Phạm Phụ, Phạm Chúng chư vị thiên vương.

Bên phải vị thứ 7: Dục giới chi gian thị vi Ba Tuần, ngũ đế đại ma, cập chư ma thiên.

Bên phải vị thứ 8: Dục giới ở đảnh Tha Hóa, Đại Tự Tại thiên vương.

Bên phải vị thứ 9: Dục giới hàng thứ, hằng Thọ Hóa Lạc Tự Tại Thiên Vương.

Bên phải vị thứ 10: Dục giới ở giữa, Đẩu Suất Đà Thiên-Tri Túc Thiên Vương.

Bên phải vị thứ 11: Dục giới không cư - Dạ Ma Thiên Vương.

Bên phải vị thứ 12: Ở Tu Di đảnh bốn phương mỗi phương bốn vị: tam thập nhị đại thiên vương.

Bên phải vị thứ 13: Ở Tu Di xéo tứ phương tứ bộ chư Thiên Thiên Tử.

Bên phải vị thứ 14: nhơn bổn không cư ứng thế kiết hung chư tinh tú thiên.

Bên phải vị thứ 15: Tu Di sơn hạ như thứ tam cấp Thường Kiều Thiên, Trì Man Thiên, Kiên Thủ Thiên, Chư Thiên Thiên Tử.

Bên phải vị thứ 16: Quang Minh hội thượng tích thị bát bộ Khẩn Na La Vương, Ca Lâu La Vương, Ma Hầu La Già Vương v.v.. nhứt thiết thần vương.

Bên phải vị thứ 17: Quang Minh hội thượng, tích chưởng khí giới, Ni Liên hà thần, chư vũ đại thần, đại ẩm thực thần, phong thủy chư thần, hỏa thần hết thảy chư thần.

Bên phải vị thứ 18: đông tây lưỡng độ, thập bát già lam, bổn tự già lam, hộ pháp thánh chúng.

Bên phải vị thứ 19: thiên can địa chi lục thập thái tuế, thập nhị cung thần, chư đại tinh quân.

Bên phải vị thứ 20: trị niên thái tuế, bổn mạng cung tào, nghiệp đạo minh quan, nhứt thiết tinh quân.

Bên phải vị thứ 21: ở tỉnh, tỉnh chủ, phủ, phủ chủ, huyện người đứng đầu thành hoàng tôn thần.

Bên phải vị thứ 22: đương sơn thổ địa chánh thần, thổ địa phường nào…. Chánh thần (nơi trai chủ ở).

Có 22 thần thổ địa như trên.

Phàm nghi cúng chư thiên như trong cuốn Thiền Môn Nhựt Tụng, theo nghi thông thường. Đây chỉ ghi lòng sớ như sau:

Ngưỡng nguyện:

Trên hội Linh Sơn, thọ âm di chúc của Phật, đến đạo tràng xứ Ma Kiệt Đà chứng minh vua trong đời phẩm Diệu Nghiêm chúng sanh nương tựa; ba cõi trên cao mong giáng lâm thương tình chứng giám. Nay ở Châu Nam Thiệm bộ trong 4 châu thiên hạ, tại nước, tỉnh, phủ, huyện, phố… ở tại địa chỉ… chùa, phụng Phật sửa soạn thiết trai cúng chư thiên, để cầu việc gì… tín chủ (tên) hôm nay cúi đầu dâng hương bày tỏ lòng thành, mong phóng hào quang soi tỏ, Thích Ca Văn Phật trên hội Kim Quang chư Phật, Bồ Tát, trời rồng 8 bộ chúng, các Thánh hiền dùng quyền thật, ngồi tòa sen vàng, mong thông thấu lời bày tỏ. 

Lại nguyện vì việc gì… (nói rõ tâm nguyện). Hôm nay ngày… tháng… năm chọn sắm mấy thức chay thanh nhẹ dâng cúng, quyền cao của thiên chủ, mong rủ thiên ân dung thọ tấc lòng thành dâng cúng. Lại ngưỡng mong: Phật đoái lòng thương, đức Trời trãi rộng theo chỗ cầu mà ban ân, là tỏ sự cảm ứng như tiếng vang, lòng người khắc cốt. Trời nghe lời tâu này mà hiển hiện thần thông dùng pháp Phật cảm hóa.

Mong hồng ân Tam Bảo, chư thiên chóng rủ ân từ, chiếu soi gia hộ cho chúng con được gội nhuần lợi lạc.

Ngày… tháng… năm (tên người) xin chí thành dâng sớ. 

Chứng nghĩa ghi rằng, Kinh Kim Quang Minh có 3 bản dịch khác nhau như: 1. Đàn Vô Sấm đời Bắc Lương dịch 4 quyển, là sách lưu hành hiện nay. 2. Hai ngài Bửu Quí đời Tùy và Chí Đức (người Thiên Trúc) dịch chung 8 quyển. 3. Nghĩa Tịnh đời Đường dịch 10 quyển văn từ lưu loát gọi là Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương.

Cúng chư thiên nay chỉ dùng bản dịch thời Bắc Tống, cúng 20 vị trời, lược quá nhiều. Đây có 49 vị bèn dùng ba bản dịch chính, muốn đầy đủ xem Thanh Quy xưa, hẳn rõ ràng tường tận hơn.

Nay trích dẫn Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương quyển 8, phẩm Đại biện tài thiên nữ về một đoạn bài kệ để chứng minh cổ Thanh Quy. Kinh ghi rằng, nay con xin triệu thỉnh: chúng Thanh Văn của Phật, mong chóng đến đây gia hộ cho tâm cầu của con được thành tựu. Chỗ mong cầu là lời chân thật, tất cả mong rằng không gian dối. Trên từ trời Sắc cứu cánhtrời Tịnh Cư thiên, Đại Phạmtrời Phạm Phụ, hết thảy chúng Phạm Vương cho đến các trời khắp trong 3000 cõi, chủ cõi Tố Ha và các quyến thuộc của họ. Con nay xin triệu thỉnh mong mỏi được đức từ bi thương tưởng cùng gia hộ. Trời Tha Hóa Tự Tạitrời Hóa Lạc cho thấy các chúng trời; đức Di Lặc sắp thành Phật, các chúng trời Dạ Ma và 33 trời, trời Tứ Thiên Vương, hết thảy chư thiên, các vị thần đất, nước, gió, lửa nương ở núi Diệu Cao, 3 thần nơi 7 biển cùng với hàng quyến thuộc, thần tài và thần ngũ đảnh, trời, trăng và các sao cùng hết thảy thiên chúng, làm cho thế gian an ổn; ở đây đang chờ mong các vị thiên thần… Chẳng ham tạo nghiệp tội; kính lễ quỉ la sát mẹ và con yêu dấu, trời rồng, dược xoa, càng thát bà, A Tu La, Khẩn Na La, Mạc Hô Lạc Già v.v... con dùng thần lực Thế Tôn kính xin triệu thỉnh… Y cứ Kinh văn này tức là dựa theo cổ Thanh Quy đầy đủ mới có thể cảm thông được. Các bậc hiền sau này cần nên lưu tâm hơn.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22249)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 15997)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15013)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18919)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14430)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18611)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14397)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13560)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13538)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11804)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13220)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13641)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13918)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13239)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15012)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16146)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11075)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16436)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11882)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17576)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12864)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13687)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12837)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14839)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16369)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13117)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12069)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12741)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12874)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12754)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14149)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14091)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16445)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12367)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14371)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11289)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11012)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13177)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13879)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13145)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 12986)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13481)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12707)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10224)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13951)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10209)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13677)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16247)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11945)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12955)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11625)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12649)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10776)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10969)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10923)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11863)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12727)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11044)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12600)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11296)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant