Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

2. Cúng Chư Thiên

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 32557)
2. Cúng Chư Thiên

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển hai
Báo ân

1. Chương hai: Báo Ân
1.2 Cúng Chư Thiên

Phàm pháp cúng chư Thiên, dự định ngày. Thầy Tri Khách lo chuẩn bị trần thiết pháp đàn, nhờ hương đăng quét dọn sạch sẽ và trang hoàng tràng phan, cờ phướn, lọng… cho thật trang nghiêm đầy đủ. Giữa chánh điện thiết trí tòa cao tôn trí Tam Bảo, kế đó hai bên đặt bàn hương án, trên bàn sắp đồ cúng, hiến cúng đèn quang minh theo hầu chư thiên; và các vị thần linh 3 cõi gồm 46 bài vị trên bàn cũng bày hương hoa, trà quả, đèn đuốc v.v.. Kế ở dưới bậc thấp hơn đặt bài vị thiên tiên sắp đồ cúng giống nhau. Như cúng cơm rau, mì, thức ăn…đều phải đầy đặn đúng pháp; ắt không nên dùng sanh vật, không thể đồ ăn nguội nhạt, ngược lại rước lấy lỗi thiếu cung kính. Sắm sửa các thứ sẵn trước một ngày. Trước giờ đi ngủ, vị Tri Khách gióng 3 hồi trống để thông báo giữa chúng buổi lễ sáng hôm sau, và cắt đặt, đề cử các phần vụ xong xuôi, đại chúng chỉ tịnh.

Sáng sớm thức dậy, thúc hiệu lệnh, chư tăng vân tập chánh điện. Đảnh lễ Tam Bảo, khai chung bảng, niệm hương, cử tán… (như nghi trên, chỉ thêm phần tán cuối):

Trên cao thần hộ pháp soi sáng,

Trời, trăng, sao tỏ rạng nhân gian,

Giữ đất nước an khang,

Lòng, thành dâng hiến cúng,

Phước thọ vững bình an.

Nam Mô Đăng Vân Lộ Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)

(Nghi lược bớt, tham khảo thêm cuốn Thiền Môn Nhựt Tụng). Chỉ 49 tôn hiệu Phật phải viết như dưới đây: 

Pháp đàn thiết lập đàn tràng:

Chính giữa: trung thiên giáo chủ: Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Đông Phương A Súc Phật, Nam Phương Bảo Tướng Phật, Tây Phương Vô Lượng Thọ Phật, Bắc Phương Vi Diệu Thanh Phật, Bảo Hoa Công Đức Hải, Lưu Ly Kim Sơn

Chư Phật quá khứ: Chiếu Minh Bảo Thắng Phật, Vô Cấu Xí Bảo Quang Minh Vương Tướng Phật, Kim Diệm Quang Minh Phật, Kim Bách Quang Minh Chiếu Tàng Phật, Kim Sơn Bảo Cái Phật, Kim Hoa Diệm Quang Tướng Phật, Đại Cự Bảo Tướng Phật (14 vị Phật viết chung 1 tấm).

Đàn nội ở trên bên trong treo phía trái:

Nam Mô Kim Quang Minh hải vi diệu pháp cự tối Thắng Kinh Vương.

Ở trên bên phải:

Nam Mô Quang Minh hội thượng chư đại Bồ Tát, Tín Tướng Bồ Tát, Kim Quang Minh Bồ Tát, Kim Tạng Bồ Tát, Thường Bi Bồ Tát, Pháp Thượng Bồ Tát… (6 vị Bồ Tát này viết chung 1 tấm). Ta Bà giáo chủ hiệu lịnh độc tôn Đại Phạm Thiên Vương và các quyến thuộc vị ấy. (Để bên trái ở dưới vị thứ nhất)

Bên trái vị thứ 1: Địa cư thế chủ Đao Lợi Trung Vương - Đế Thích tôn thiên.

Bên trái vị thứ 2: Đông Phương hộ thế càng đạt Bà Chủ - Trì Quốc Thiên Vương.

Bên trái vị thứ 3: Nam Phương hộ thế: Cưu Bàn Trà Chủ tăng trưởng Thiên Vương.

Bên trái vị thứ 4: Tây Phương hộ thế: Đại Long Vương Vương - Quảng Mục Thiên Vương.

Bên trái vị thứ 5: Bắc Phương hộ thế - Đại Dược Xoa Chủ: Đa Văn Thiên Vương.

Bên trái vị thứ 6: Thân phục oán ma thệ vị lực sĩKim Cang Mật Tích Tôn Thiên

Bên trái vị thứ 7: Đặc tôn chi chủ cư sắc đảnh thiên – Ma Hê Thủ La tôn thiên.

Bên trái vị thứ 8: Nhị thập bát bộ thống lãnh quỉ thần tán chỉ đại tướng tôn thiên.

Bên trái vị thứ 9: Năng dữ tổng trì đại trí huệ tụ - Đại Biện Tài tôn thiên.

Bên trái vị thứ 10: Tùy kỳ sở cầu linh đắc thành tựu - Đại Công Đức tôn thiên.

Vị 11 bên trái: Ân ưu tứ bộ ngoại hộ tam châu – Vi Đà Thiên Tướng tôn thiên.

Vị 12 bên trái: Tăng trưởng xuất sanh, chứng minh công đứcKiên Lao Địa Thần tôn thiên.

Vị 13 bên trái: Giác trường thùy ấm nhân quả: Hổ Nghiêm Bồ Đề Thọ Thần tôn thiên.

Vị 14 bên trái: Sanh chư quỉ vương bảo hộ nam nữ - quỉ tử mẫu thần tôn thiên.

Vị 15 bên trái: Hành nhựt nguyệt tiền, cứu binh phạt nạn – Ma Lợi Phộc tôn thiên.

Vị 16 bên trái: Bách minh lợi sanh thiên quang phá ám - nhựt cung Thái Dương tôn thiên.

Vị 17 bên trái: Tinh chư tú vương thanh lương chiếu dạ nguyệt cung Thái Âm tôn thiên.

Vị 18 bên trái: Bí tạng pháp bảo chủ chấp quần long – Ta Kiệt La Vương tôn thiên.

Vị 19 bên trái: Chưởng u minh quyền, vi địa ngục chủ - Diệm Ma La tôn thiên.

Vị 20 bên trái: Ngũ nhạc cư đông Thái sơn phủ quận – Thiên Tề Nhân Nguyên tôn thần.

Vị 21 bên trái: Thiết Vi lưỡng sơn thập bát ngục chủ - thập điện minh vương tôn thần.

Vị 22 bên trái: Không thần, địa thần, trú thần, dạ thần; nhứt thiết hộ thân chư thần đẳng chúng.

Vị 23 bên trái: Vô sắc tứ không, phi phi tưởng xứ, vô sở hữu xứ, thức xứ, không xứ chư đại thiên vương.

Bên phải vị thứ 1: Sắc giới tứ thiền, Ngũ Na Hàm Thiên, Sắc cứu cánh, Thiện Hiện, Thiện Kiến, Vô Nhiệt, Vô Phiền chư đại thiên vương.

Bên phải vị thứ 2: Sắc giới tứ thiền, ngoại đạo sở cư – vô tưởng thiên vương.

Bên phải vị thứ 3: Sắc giới tứ thiềnphàm phu vị - Quảng Quả, Phước Sanh, Vô Văn Thiên thượng, chư đại thiên vương.

Bên phải vị thứ 4: Sắc giới tam thiền: Biến Tịnh, Vô Lượng Tịnh, Thiểu Tịnh chư đại thiên vương.

Bên phải vị thứ 5: Sắc giới nhị thiền: Quang Âm, Vô Lượng Quang, Thiểu Quang, chư đại thiên vương.

Bên phải vị thứ 6: Sắc giới sơ thiền thiên vương Đại Phạm thứ cập Phạm Phụ, Phạm Chúng chư vị thiên vương.

Bên phải vị thứ 7: Dục giới chi gian thị vi Ba Tuần, ngũ đế đại ma, cập chư ma thiên.

Bên phải vị thứ 8: Dục giới ở đảnh Tha Hóa, Đại Tự Tại thiên vương.

Bên phải vị thứ 9: Dục giới hàng thứ, hằng Thọ Hóa Lạc Tự Tại Thiên Vương.

Bên phải vị thứ 10: Dục giới ở giữa, Đẩu Suất Đà Thiên-Tri Túc Thiên Vương.

Bên phải vị thứ 11: Dục giới không cư - Dạ Ma Thiên Vương.

Bên phải vị thứ 12: Ở Tu Di đảnh bốn phương mỗi phương bốn vị: tam thập nhị đại thiên vương.

Bên phải vị thứ 13: Ở Tu Di xéo tứ phương tứ bộ chư Thiên Thiên Tử.

Bên phải vị thứ 14: nhơn bổn không cư ứng thế kiết hung chư tinh tú thiên.

Bên phải vị thứ 15: Tu Di sơn hạ như thứ tam cấp Thường Kiều Thiên, Trì Man Thiên, Kiên Thủ Thiên, Chư Thiên Thiên Tử.

Bên phải vị thứ 16: Quang Minh hội thượng tích thị bát bộ Khẩn Na La Vương, Ca Lâu La Vương, Ma Hầu La Già Vương v.v.. nhứt thiết thần vương.

Bên phải vị thứ 17: Quang Minh hội thượng, tích chưởng khí giới, Ni Liên hà thần, chư vũ đại thần, đại ẩm thực thần, phong thủy chư thần, hỏa thần hết thảy chư thần.

Bên phải vị thứ 18: đông tây lưỡng độ, thập bát già lam, bổn tự già lam, hộ pháp thánh chúng.

Bên phải vị thứ 19: thiên can địa chi lục thập thái tuế, thập nhị cung thần, chư đại tinh quân.

Bên phải vị thứ 20: trị niên thái tuế, bổn mạng cung tào, nghiệp đạo minh quan, nhứt thiết tinh quân.

Bên phải vị thứ 21: ở tỉnh, tỉnh chủ, phủ, phủ chủ, huyện người đứng đầu thành hoàng tôn thần.

Bên phải vị thứ 22: đương sơn thổ địa chánh thần, thổ địa phường nào…. Chánh thần (nơi trai chủ ở).

Có 22 thần thổ địa như trên.

Phàm nghi cúng chư thiên như trong cuốn Thiền Môn Nhựt Tụng, theo nghi thông thường. Đây chỉ ghi lòng sớ như sau:

Ngưỡng nguyện:

Trên hội Linh Sơn, thọ âm di chúc của Phật, đến đạo tràng xứ Ma Kiệt Đà chứng minh vua trong đời phẩm Diệu Nghiêm chúng sanh nương tựa; ba cõi trên cao mong giáng lâm thương tình chứng giám. Nay ở Châu Nam Thiệm bộ trong 4 châu thiên hạ, tại nước, tỉnh, phủ, huyện, phố… ở tại địa chỉ… chùa, phụng Phật sửa soạn thiết trai cúng chư thiên, để cầu việc gì… tín chủ (tên) hôm nay cúi đầu dâng hương bày tỏ lòng thành, mong phóng hào quang soi tỏ, Thích Ca Văn Phật trên hội Kim Quang chư Phật, Bồ Tát, trời rồng 8 bộ chúng, các Thánh hiền dùng quyền thật, ngồi tòa sen vàng, mong thông thấu lời bày tỏ. 

Lại nguyện vì việc gì… (nói rõ tâm nguyện). Hôm nay ngày… tháng… năm chọn sắm mấy thức chay thanh nhẹ dâng cúng, quyền cao của thiên chủ, mong rủ thiên ân dung thọ tấc lòng thành dâng cúng. Lại ngưỡng mong: Phật đoái lòng thương, đức Trời trãi rộng theo chỗ cầu mà ban ân, là tỏ sự cảm ứng như tiếng vang, lòng người khắc cốt. Trời nghe lời tâu này mà hiển hiện thần thông dùng pháp Phật cảm hóa.

Mong hồng ân Tam Bảo, chư thiên chóng rủ ân từ, chiếu soi gia hộ cho chúng con được gội nhuần lợi lạc.

Ngày… tháng… năm (tên người) xin chí thành dâng sớ. 

Chứng nghĩa ghi rằng, Kinh Kim Quang Minh có 3 bản dịch khác nhau như: 1. Đàn Vô Sấm đời Bắc Lương dịch 4 quyển, là sách lưu hành hiện nay. 2. Hai ngài Bửu Quí đời Tùy và Chí Đức (người Thiên Trúc) dịch chung 8 quyển. 3. Nghĩa Tịnh đời Đường dịch 10 quyển văn từ lưu loát gọi là Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương.

Cúng chư thiên nay chỉ dùng bản dịch thời Bắc Tống, cúng 20 vị trời, lược quá nhiều. Đây có 49 vị bèn dùng ba bản dịch chính, muốn đầy đủ xem Thanh Quy xưa, hẳn rõ ràng tường tận hơn.

Nay trích dẫn Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương quyển 8, phẩm Đại biện tài thiên nữ về một đoạn bài kệ để chứng minh cổ Thanh Quy. Kinh ghi rằng, nay con xin triệu thỉnh: chúng Thanh Văn của Phật, mong chóng đến đây gia hộ cho tâm cầu của con được thành tựu. Chỗ mong cầu là lời chân thật, tất cả mong rằng không gian dối. Trên từ trời Sắc cứu cánhtrời Tịnh Cư thiên, Đại Phạmtrời Phạm Phụ, hết thảy chúng Phạm Vương cho đến các trời khắp trong 3000 cõi, chủ cõi Tố Ha và các quyến thuộc của họ. Con nay xin triệu thỉnh mong mỏi được đức từ bi thương tưởng cùng gia hộ. Trời Tha Hóa Tự Tạitrời Hóa Lạc cho thấy các chúng trời; đức Di Lặc sắp thành Phật, các chúng trời Dạ Ma và 33 trời, trời Tứ Thiên Vương, hết thảy chư thiên, các vị thần đất, nước, gió, lửa nương ở núi Diệu Cao, 3 thần nơi 7 biển cùng với hàng quyến thuộc, thần tài và thần ngũ đảnh, trời, trăng và các sao cùng hết thảy thiên chúng, làm cho thế gian an ổn; ở đây đang chờ mong các vị thiên thần… Chẳng ham tạo nghiệp tội; kính lễ quỉ la sát mẹ và con yêu dấu, trời rồng, dược xoa, càng thát bà, A Tu La, Khẩn Na La, Mạc Hô Lạc Già v.v... con dùng thần lực Thế Tôn kính xin triệu thỉnh… Y cứ Kinh văn này tức là dựa theo cổ Thanh Quy đầy đủ mới có thể cảm thông được. Các bậc hiền sau này cần nên lưu tâm hơn.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11506)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11833)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11012)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11217)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11950)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12416)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10630)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17832)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11601)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9832)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10084)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12251)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15222)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11095)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14187)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11960)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15153)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11858)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12302)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11069)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 11971)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10491)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12442)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13020)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14652)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12534)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16375)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19413)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12994)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12545)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12147)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11693)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10780)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13365)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11849)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11723)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11490)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12624)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14365)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12479)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15516)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13461)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12751)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9743)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17852)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11038)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8958)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12067)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12911)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10203)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12072)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15153)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16478)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12093)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11355)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14113)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19496)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14037)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24375)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10574)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant